Thôi được rồi, vậy là tôi đi chơi với cậu ta.
Thế thì sao? Việc đó thì có sao đâu? Ý tôi là, tên con trai đó đã hỏi tôi có muốn đi ăn hamburger với cậu ta sau khi tôi trả đứa em trai về cho bố mẹ cậu ta lúc 5 giờ hay không, và tôi đồng ý.
Sao phải từ chối chứ? Tôi trông đợi điều gì khi về nhà đây, hả? Chắc chắn là chẳng hi vọng gì có bữa tối rồi. Món gián trộn kem à? Hay là nhện hầm thái nhỏ?
Ô, phải, lại còn hồn ma của cái kẻ đã đi giết chồng chưa cưới của mình, và đang cố loại bỏ cả tôi càng sớm càng tốt nữa chứ.
Tôi nghĩ có thể mình đã nhìn nhầm Paul. Có thể tôi đã thiếu công bằng. Ý tôi là, ừ thì ngày hôm qua cậu ta đúng là có vẻ như một kẻ đeo bám thật, nhưng cậu ta cũng đã chuộc lại lỗi lầm khi cứu tôi khỏi mấy ông cảnh sát đấy thôi. Mà cậu ta cũng không hề có hành động bất nhã nào với tôi cả. Không hề. Khi tôi nói là muốn về nhà, cậu ta bảo không vấn đề, và đưa tôi về.
Tất nhiên chẳng phải do lỗi của cậu ta khi lái xe lên chỗ nhà tôi, Paul không thể lái vào lối cho xe chạy, vì mấy cái xe cảnh sát và xe cứu thương đã đỗ sẵn ở đấy rồi. Xin thề, có một thứ tôi sẽ dùng tiền làm thêm mùa hè để sắm, đó là cái di động. Bởi lẽ mọi chuyện cứ tiếp tục xảy ra mà tôi thì không biết gì hết vì đi ăn hamburger với một người ở quán Friday.
Tôi nhảy ra khỏi chiếc xe và chạy ngược lên chỗ tôi thấy tất cả đều đang đứng. Khi tôi chạy đến chỗ dải băng cảnh sát chằng quanh cái hố mà lẽ ra là để đặt cái bồn tắm nó bác sỹng thì có người tóm lấy chỗ eo tôi, kéo tôi quay lại trước khi tôi có cơ hội làm cái điều mình đang dự tính cho dù không chắc chắn, đó là chui xuống hố cùng với những người tôi trông thấy bên dưới đó đang cúi mình xem xét một thứ mà tôi tin chắc là một cái xác.
Nhưng, như tôi đã nói đấy, có người đã ngăn tôi lại rồi.
"Ây da, nhóc," người đó nói, xoay người tôi lại. Hoá ra là dượng Andy, trông bẩn hết sức, người đầy mồ hôi, chẳng giống dượng lúc bình thường gì cả. "Từ từ đã nào. Không có gì dưới đó cho con xem đâu."
"Andy." Mặt trời chưa lặn hẳn, nhưng tôi chẳng nhìn được gì. Cứ như thể tôi đang ở trong một đường hầm, tất cả những gì có thể thấy được là ánh sáng nhỏ xíu phía cuối đường. "Dượng Andy, mẹ con đâu rồi?"
"Mẹ con không sao," dượng Andy nói. "Tất cả mọi người đều không sao cả."
Cái vùng sáng nhỏ nhoi đó dần dần mở rộng ra một chút. Giờ thì tôi có thể thấy gương mặt mẹ tôi đang đứng nhìn tôi lo lắng từ chỗ sân sau nhà, Ngu Ngơ đứng sau mẹ, trên mặt đeo cái nụ cười nhếch mép khinh khỉnh như mọi khi.
"Vậy thì cái gì - " tôi thấy một người đàn ông dưới đáy hố đang nhấc một cái cáng lên. Trên cáng là một cái túi đen đựng xác người như kiểu mà bạn vẫn hay thấy trên tivi. "Đó là ai vậy ạ?" tôi hỏi.
"Ừm, vẫn chưa dám nói chắc," dượng trả lời. "Nhưng cho dù là ai đi nữa thì hẳn người đó phải nằm đây từ lâu lắm rồi, vậy nên có thể chúng ta không quen đâu."
Cái mặt Ngu Ngơ dần hiện ra to hơn trước tầm nhìn của tôi. "Đó là một bộ xương," nó nói cho tôi biết với vẻ hứng thú lắm lắm. Có vẻ như nó đã cho qua được cái thực tế là mới chỉ sáng nay thôi mồm miệng nó còn đầy những bọ, và giờ thì lại trở về làm con người đáng ghét không thể nào chịu được đúng bản chất thường ngày của nó. "Hay ho cực Suze ạ, lẽ ra cậu phải có mặt ở đây xem. Xẻng của tôi xuyên thẳng vào cái sọ. Nó kêu đánh rắc một cái như thể là một quả trứng hay gì đó ấy."
Đối với tôi, thế là đủ rồi. Trước mắt tôi, cái cảnh tối tăm trong đường hầm lại hiện ra ngay tức thì nhưng vẫn kịp để tôi trông thấy một thứ rơi từ trên cáng xuống khi đi qua chỗ tôi đứng. Tôi dán chặt mắt vào thứ đó, nhìn theo khi nó khẽ bay bay sát mặt đất rồi rơi xuống rất gần chỗ chân tôi. Chỉ là một mảnh vải đã lấm bẩn hết và cực kỳ xơ xác, to bằng bàn tay tôi, không hơn. Trông nó như một cái giẻ lau vậy, cho dù có thể thấy một thời nó đã từng được viền đăng ten xung quanh. Những mẩu đăng ten nhỏ xíu đó vẫn còn bám lại trên đó trông như những quả gai, nhất là ở phần góc, cái chỗ cho dù đã mờ nhạt rồi nhưng vẫn còn có thể đọc được ba chữ cái viết tắt thêu trên đó:
MDS.
Maria de Silva. Đó là chiếc khăn tay mà tối qua Jesse đã dùng để lau nước mắt cho tôi. Chỉ có điều, đây là chiếc khăn thật, xơ xác và ngả sang màu nâu theo năm tháng.
Và nó rơi ra từ mớ vải vóc bị phân huỷ đang giữ bộ xương của Jesse.
Tôi quay ngoắt lại và nôn thốc nôn tháo khắp nơi tất cả chỗ hamburger phomát thịt muối và cà chua đã ăn ở quán Friday.
Chẳng cần nói cũng biết, chỉ có mỗi mình mẹ tôi là người thương xót nhất khi thấy tôi như thế. Ngu Ngơ thì tuyên bố rằng đó là cảnh kinh tởm nhất mà nó từng chứng kiến. Rõ ràng là nó đã quên luôn chuyện chưa đầy mười hai tiếng trước trong miệng nó có cái thứ gì rồi. Dượng Andy thì chỉ đi lấy đường ống dẫn nước, và Ngái Ngủ, cũng thờ ơ như thế, nói rằng anh ta phải đi thôi, nếu không thì sẽ bị muộn giờ đi giao 'za.
Mẹ cứ nhất định bắt tôi lên giường nằm cho dù cái điều cuối cùng tôi muốn là có mẹ ở trong phòng. Ý tôi là, tôi vừa mới trông thấy người ta đem xác của Jesse ra khỏi cái sân sau nhà. Tôi muốn nói chuyện với anh ấy về cái cảnh tệ hại đó, nhưng làm sao mà nói được khi mẹ còn đang ở đây?
Tôi nghĩ là nếu cứ để mẹ loăng quăng lo lắng nhặng xị cho tôi khoảng nửa tiếng thôi là mẹ sẽ đi. Nhưng mẹ ở lại còn lâu hơn thế, bẳt tôi đi tắm rửa và thay bộ đồng phục ra, mặc bộ quần áo ngủ rộng thùng thình bằng lụa mà mẹ đã mua tặng tôi ngày lễ Valentine (thảm thật, đó là món quà Valentine duy nhất mà tôi được nhận). Thế rồi mẹ cứ nhất định chải hết tóc tôi ra phía sau, như mẹ vẫn làm khi tôi còn là một đứa con nít con nôi vậy.
Tất nhiên mẹ muốn nói chuyện. Mẹ có bao điều muốn nói về chuyện bộ xương mà dượng Andy và Ngu Ngơ đã phát hiện ra, cứ nói mãi rằng đó chỉ là "một người đàn ông đáng thương nào đó" đã bị giết trong một cuộc đấu súng từ hồi ngôi nhà này còn là nhà trọ dành cho bọn lính đánh thuê, bọn tay sai đi giết người và con trai kỳ lạ của người chủ trang trại gia súc. Mẹ nói là cảnh sát nhất định coi đây là một vụ giết người, cho đến khi người khám nghiệm xác định được cái xác đó đã nằm đây bao lâu rồi, nhưng vì người đã chết đó vẫn còn cả những chiếc đinh ở gót giày để thúc ngựa (đinh thúc ngựa cơ đấy!), thì mẹ bảo rằng rồi họ cũng sẽ có kết luận giống như mẹ: rằng người này đã chết từ lâu lắm rồi, trước cả khi có ai trong chúng ta ra đời ấy chứ.
Mẹ cố gắng giúp tôi trở nên dễ chịu hơn. Nhưng làm sao mẹ có thể làm được? Mẹ đâu có biết lý do tại sao tôi lại buồn bã đến như thế. Tôi đâu phải là Jack. Chưa bao giờ tôi kể lể với mẹ về tài năng bí mật của mình. Mẹ không hề hay rằng tôi biết bộ xương đó là của ai. Mẹ không hề hay rằng chỉ mới mười hai tiếng trước thôi, anh ấy còn ngồi trên chiếc giường nằm ban ngày, bật cười khi đọc Những cây cầu của quận Madison. Và rằng chỉ mấy tiếng trước lúc đó, anh ấy đã hôn tôi - cho dù chỉ là hôn lên mái tóc, nhưng vẫn cứ là hôn.
Thôi đi. Là bạn thì bạn cũng sẽ buồn thôi.
Cuối cùng, cuối cùng thì mẹ cũng đi. Tôi thở phào một cái nhẹ nhõm, bạn biết đấy, tôi nghĩ rằng mình có thể được thoải mái thư giãn được rồi.
Nhưng không. Ôi, không đâu. Bởi lẽ mẹ tôi không hề có ý định để cho tôi được ở một mình. Vài phút sau thì tôi phát hiện ra điều đó, khi điện thoại reo vang và dượng Andy gào vọng lên gác rằng đó là điện thoại của tôi. Thực sự tôi không muốn nói chuyện với bất cứ ai, nhưng biết làm thế nào được? Dượng Andy đã nói là tôi có nhà mất rồi. Vậy là tôi nhấc máy, và bên kia tôi nghe được một giọng nói nho nhỏ vui tươi của ai thế nhỉ?
Đúng rồi. Là giọng Tiến Sỹ.
"Suze ơi, chị thế nào rồi?" đứa em con dượng hỏi tôi. Cho dù hiển nhiên là nó đã biết rồi còn gì. Ý tôi là biết tôi ra sao ấy mà. Rõ là mẹ tôi đã gọi điện cho nó ở chỗ cắm trại - mà tôi hỏi bạn, có ai lại đi nghe điện thoại của mẹ kế khi đi cắm trại không cơ chứ? - mẹ bảo nó nói chuyện với tôi. Bởi vì dĩ nhiên là mẹ biết. Mẹ biết thằng bé là đứa anh em con dượng duy nhất mà tôi có thể chơi được, và tôi tin chắc rằng mẹ nghĩ có thể tôi sẽ kể cho nó nghe bất kỳ chuyện gì đang khiến tôi khó chịu, và mẹ hi vọng sau đó có thể hỏi dò được điều gì từ nó chăng. Đâu phải tự dưng mà mẹ tôi là phóng viên truyền hình giành được giải thưởng, bạn biết rồi đấy.
"Suze ơi?" Giọng Tiến Sỹ lo âu. "Mẹ chị đã kể cho em về... chuyện xảy ra. Chị có cần em về nhà không?"
Tôi ngả đầu xuống gối. "Về nhà? Không, chị không muốn em về. Sao chị lại muốn em về nhà làm gì?"
"Ừm," Tiến Sỹ nói. Nó hạ giọng xuống nho nhỏ như thể đang nghĩ có người nghe. "Vì chuyện Jesse."
Trong số tất cả những người tôi cùng sống chung thì chỉ có Tiến Sỹ là người duy nhất biết được một tí tẹo về chuyện Chúng Ta Không Đơn Độc. Tiến Sỹ tin vào điều đó... và nó có lý do để tin. Có một lần khi tôi đang gặp rắc rối thật sự, Jesse đã đến tìm nó. Cho dù sợ chết khiếp nhưng Tiến Sỹ vẫn đến giúp tôi. Và giờ đây thằng bé lại đang đề nghị điều đó một lần nữa.
Chỉ có điều, nó thì có thể làm được gì? Không gì hết. Còn tệ hơn cả không làm được gì, nó có thể sẽ bị thương. Cứ xem chuyện xảy ra sáng nay với Ngu Ngơ đấy. Tôi có muốn phải trông thấy Tiến Sỹ bị những con bọ bám đầy mặt không? Không bao giờ.
"Không," tôi nói thật nhanh. "Không đâu Tiến Sỹ - à quên, David. Không cần phải làm thế đâu. Em cứ ở đấy đi. Ở đây mọi chuyện đều ổn cả mà. Thật đấy."
Giọng Tiến Sỹ nghe có vẻ thất vọng. "Suze, mọi chuyện không hề ổn. Mà ít ra thì chị có muốn nói về chuyện đó không?"
Ô, có chứ. Tôi muốn kể lể chuyện yêu đương - hay chưa đến mức thế - với đứa em con dượng mới mười hai tuổi lắm chứ.
"Không hẳn," tôi đáp.
"Nghe này Suze," Tiến Sỹ nói. "Em biết hẳn là khó chịu lắm. Ý em là, phải nhìn thấy xương cốt của anh ta như thế. Nhưng chị cần phải nhớ rằng thân xác chúng ta chỉ đơn giản là một thứ để chứa chất - một thứ rất tầm thường - để cho linh hồn chúng ta trú ngụ khi ta sống trên đời này. Thân xác của Jesse... ừm... bây giờ nó không còn liên hệ gì với anh ta nữa."
Nó nói thì dễ lắm, tôi khổ sở thầm nghĩ. Nó đã bao giờ thấy được cơ bụng của Jesse đâu nào. Nhưng dĩ nhiên nói thế chả phải là dù có thấy rồi thì Tiến Sỹ sẽ thích thú gì đâu.
"Thật mà," Tiến Sỹ nói tiếp, "nếu chị nghĩ mà xem, thì sẽ thấy có thể đó không phải là thân xác duy nhất mà Jesse sẽ ngụ. Theo như đạo Hindu, chúng ta thay đổi lớp vỏ bên ngoài - chính là thân xác - đến vài lần. Thật ra, ta cứ phải thay đổi như thế mãi, điều đó còn tuỳ thuộc vào những điều thiện điều ác mà chúng ta đã làm, cho đến khi ta trải qua hết, nhờ đó đạt tới sự thoát ly khỏi vòng luân hồi."
"Ơ?" Tôi nhìn chằm chằm vào cái rèm phủ phía trên giường. Thực sự không thể tin nổi tôi đang nói chuyện này cơ đấy. Mà lại còn với một đứa nhóc mười hai tuổi nữa chứ. "Thế à?"
"Đúng vậy. Với hầu hết chúng ta. Ý em là, trừ phi ngay từ đầu ta đã đạt được điều đó rồi. Nhưng chuyện như thế hầu như chưa bao giờ xảy ra cả. Chị thấy đấy, chuyện xảy ra với Jesse là những điều thiện ác mà anh ta đã làm đều đang còn hỗn độn chưa đâu vào đâu, và anh ta bị gạt ra khỏi con đường đến với cõi niết bàn. Chỉ cần tìm cách trở lại với thân xác mà lẽ ra anh ta phải trú ngụ sau khi thoát ra khỏi... thân xác của kiếp trước, và rồi anh ta sẽ ổn thôi."
"David này," tôi nói. "Có chắc là em đang đi cắm trại dành cho dân vi tính đấy chứ? Vì chị nghe em nói như thể mẹ và dượng Andy đã gửi nhầm em đến trại cho dân tập yoga ấy."
"Suze," Tiến Sỹ nói kèm một cái thở dài. "Chị này. Tất cả những gì em muốn nói là, bộ xương cốt mà chị đã trông thấy, đó không phải là Jesse, được chưa nào? Giờ đây nó không còn liên quan gì đến anh ta nữa. Vì thế, đừng để nó khiến chị phải buồn. Được không?"
Tôi quyết định bây giờ thay đổi chủ đề là đúng lúc lắm. "Vậy," tôi nói. "Ở chỗ cắm trại có cô bé xinh xắn đáng yêu nào không?"
"Suze," nó nói nghiêm nghị. "Chị đừng - "
"Biết ngay mà," tôi nói. "Cô bé đó tên gì thế?"
"Chị thôi đi," Tiến Sỹ nói. "Này, em phải cúp máy đây. Nhưng chị sẽ nhớ những gì em đã nói chứ? Chủ Nhật em về, đến lúc đó chị em mình sẽ nói chuyện được nhiều hơn."
"Ừ," tôi nói. "Hẹn gặp em."
"Chào chị. À, Suze này?"
"Ừ, gì vậy Tiến Sỹ - à quên, David?"
"Chị nhớ bảo trọng nhé? Cái tên Diego - gã trong cuốn sách mà bị cho là đã giết hại Jesse ấy mà? - hắn ta có vẻ... xấu xa lắm. Chị có thể phải cẩn thận nhìn trước nhìn sau hoặc là... ừm... sao đó."
'Sao đó' là đúng đấy.
Nhưng tôi không nói thế với Tiến Sỹ. Thay vào đó, tôi chào tạm biệt nó. Thì còn nói được gì khác nữa nào? Nói rằng Felix Diego chẳng xấu xa như nhóc nghĩ? Tôi còn đang buồn chán đến độ không thể nào đùa được với ý nghĩ tôi có thể phải đương đầu với một hồn ma thứ hai cũng đầy thù địch.
Nhưng tôi còn chẳng biết mình khó chịu, buồn chán và lo lắng vì điều gì, cho đến lúc con Spike bò qua khung cửa sổ mở rộng, liếc quanh chờ đợi, và kêu meo meo...
Và Jesse không xuất hiện.
Thậm chí cả khi tôi có gọi tên anh ấy đi nữa.
Chúng chẳng nghe, lúc nào cũng vậy. Ý tôi là bọn ma ấy. Chúng không đến khi bạn gọi đâu. Nhưng đa phần thì Jesse đều đến mà. Cho dù thời gian gần đây anh ấy đều hiện ra trước cả khi tôi kịp cất tiếng gọi, khi tôi mới chỉ nghĩ đến chuyện sẽ gọi anh ấy thôi. Thế rồi, ầm, điều tiếp theo là anh ấy hiện ra.
Nhưng lần này thì không. Chẳng có gì. Không mảy may xuất hiện.
Ừm, tôi tự nhủ trong khi đổ thức ăn cho Spike và cố giữ bản thân được bình tĩnh. Không sao. Điều đó chẳng có nghĩa gì đâu. Có thể anh ấy bận. Bên dưới sân kia là bộ hài cốt của anh ấy mà. Có thể anh ấy đang đi theo đến bất cứ nơi nào họ mang nó đi. Đến nhà xác hay gì đó. Khi phải chứng kiến người ta đào xác mình lên thì hẳn là phải đau đớn lắm. Jesse chẳng biết gì về đạo Hindu và mấy điều thiện ác ấy cả. Hay ít ra thì, đó là tôi biết thế. Đối với anh ấy, thân xác có thể có ý nghĩa hơn nhiều chứ không đơn giản chỉ là nơi trú ngụ cho linh hồn mà thôi.
Anh hẳn phải ở đó. Ở nhà xác. Để xem họ làm gì với phần di cốt của mình.
Nhưng hàng giờ cứ trôi qua, trời càng lúc càng tối dần, và Spike, con mèo vốn lúc nào cũng chuồn ra ngoài đi kiếm bọn chim chóc nhỏ nhỏ hoặc con chó Chihuahua nào đó, giờ lại leo lên giường của tôi, nơi tôi ngồi lật những cuốn tạp chí mà chẳng đọc được chữ nào cả, và nó dụi đầu vào tay tôi...
Và lúc đó tôi mới biết.
Lúc đó tôi mới biết rằng đã xảy ra chuyện gì không ổn, rất không ổn. Bởi lẽ con mèo đó vốn chẳng ưa gì tôi hết, mặc dù tôi là người cho nó ăn. Nếu như nó trèo lên giường tôi, dụi đầu vào bàn tay tôi, vậy thì, điều đó có nghĩa là cái thế giới này đã sụp đổ rồi.
Bởi vì Jesse không quay về nữa.
Chỉ có điều tôi cứ nhắc đi nhắc lại với bản thân mình trong khi cơn hoảng hốt cứ ngày một dâng lên, tự nhủ rằng anh ấy đã hứa rồi mà. Anh đã thề mà.
Nhưng từng phút giây cứ chầm chậm trôi đi mà chẳng thấy bóng dáng anh, vậy là tôi biết rồi. Chỉ là biết thôi, không giải thích được. Anh ấy đi rồi. Người ta đã tìm được xác của anh, điều đó có nghĩa anh không còn là một người mất tích, và điều đó cũng có nghĩa là anh không cần phải lang thang trong căn phòng của tôi. Không cần như vậy nữa, giống như tối hôm qua tôi đã cố giải thích cho anh hiểu.
Vậy mà anh đã khẳng định chắc chắn... chắc chắn rằng chuyện không phải như thế. Anh ấy còn bật cười. Anh cười khi lần đầu tiên tôi nhắc đến điều đó, như thể đó là một điều ngớ ngẩn vậy.
Nhưng vậy thì anh ở đâu? Nếu anh không ra đi - lên thiên đàng, hay đến kiếp sau (không phải xuống địa ngục; tôi tin chắc không bao giờ có chuyện Jesse lại ở dưới địa ngục, nếu như nơi đó là có thật) - vậy anh đang ở đâu?
Tôi cố gắng gọi bố. Không phải gọi bằng điện thoại hay gì đâu, bởi vì hiển nhiên là làm sao mà tìm được bố tôi theo cách đó, bố đã mất rồi mà. Tôi cố gắng gọi bố, cho dù bố đang ở đâu đó ngoài kia, nơi những linh hồn đang trú ngụ.
Chỉ có điều, hiển nhiên bố cũng chẳng đến. Nhưng mà, bố cũng có bao giờ đến đâu. Ừ thì, cũng thỉnh thoảng. Nhưng hiếm lắm, mà lần này thì không rồi.
Tôi chỉ muốn bạn hiểu một điều rằng, thường thì tôi không hoảng sợ như thế này. Thông thường, tôi là đứa thích hành động hơn. Có chuyện xảy ra, rồi tôi đi tẩn vài con ma. Lúc nào cũng thế. Nhưng lần này...
Chẳng hiểu sao tôi không tài nào suy nghĩ cho sáng suốt. Thực sự không thể. Tôi cứ ngồi đó, trong bộ quần áo ngủ xanh lá cây rộng, nghĩ rằng: Mình phải làm gì? Mình phải làm gì bây giờ? Đúng thế đấy. Điều đó thật là tệ.
Vậy nên tôi mới làm cái điều tiếp theo. Nếu bản thân tôi không thể tự nghĩ ra mình phải làm gì, thì tôi cần có ai đó nói cho tôi biết cần phải làm gì. Và tôi biết người đó là ai rồi.
Tôi phải nói nhỏ vì lúc đó đã hơn mười một giờ, mọi người trong nhà đã ngủ hết, chỉ trừ có tôi. "Cha Dominic có đó không ạ?" tôi hỏi.
Người phía bên kia đầu dây - nghe tiếng thì đó là một ông lão - nói: "Con nói gì vậy? Ta không nghe thấy gì cả?"
"Cha Dominic," tôi cố nói to trong chừng mực có thể. "Làm ơn, tôi cần phải gặp Cha Dominic ngay lập tức. Ông ấy có ở đó không ạ?"
"Có đấy con ạ," ông cụ nói. Rồi tôi nghe tiếng ông kêu lên: "Dom! Này, Dom ơi! Điện thoại của ông này!"
Dom ư? Sao người đó dám gọi Cha Dominic là Dom? Thật không biết lễ độ gì cả.
Nhưng tất cả nỗi bực dọc của tôi đều tan biến hết khi tôi nghe thấy giọng nói khe khẽ, trầm trầm của Cha Dominic. Trước đó tôi chưa hề nhận ra là tôi nhớ ông biết bao, cả mùa hè chẳng gặp ông ngày nào như hồi còn đi học. "Alô?"
"Cha Dom ơi," tôi nói. Không, không phải nói. Tôi thừa nhận: tôi lặng lẽ khóc. Đúng là tôi điên mất rồi, chẳng còn tự chủ được gì cả.
"Susannah à?" Cha Dominic nói, giọng sững sờ. "Có chuyện gì thế? Sao con lại khóc? Con không sao chứ?"
"Vâng ạ," tôi nói. Thôi được, không phải nói: mà là nức nở. "Không phải con. Mà là J-Jesse."
"Jesse à?" Giọng Cha Dom lúc nào cũng thế cứ mỗi khi có chuyện nhắc đến Jesse. Cần một thời gian ông mới chịu thoải mái hơn với Jesse. Chắc là tôi biết lý do. Cha D không chỉ là một vị linh mục mà ông còn là hiệu trưởng của ngôi trường theo đạo Cơ đốc. Ông không tán thành chuyện con trai con gái ở chung phòng... cho dù tên con trai đó... bạn biết đấy... đã chết rồi.
Và tôi có thể hiểu được điều này, bởi vì những người làm cầu nối cho hồn ma khác với người thường. Những người khác thì chỉ đi xuyên qua những bóng ma mà thôi. Lúc nào cũng thế, mà họ thậm chí cũng chẳng hề hay biết. Ừ thì, có thể họ cảm nhận được những vùng lạnh lẽo, hoặc họ nghĩ là mình liếc thấy cái gì đó qua khoé mắt, nhưng khi quay lại thì chẳng thấy ai cả.
Những người làm cầu nối thì lại khác. Đối với chúng tôi, ma đều có xương có thịt chứ không phải là những màn sương mờ ảo. Tay tôi không thể nào đi xuyên qua người Jesse được, cho dù mọi người khác đều thế. Mọi người khác, trừ có Jack và Cha Dom.
Thế nên cũng dễ hiểu tại sao Cha Dominic chẳng bao giờ thích thú gì Jesse cho lắm, cho dù anh ấy đã cứu sống tôi không biết bao nhiêu lần. Bởi lẽ, dù anh ấy có thế nào đi nữa thì Jesse vẫn là một tên con trai, và anh ấy sống trong phòng tôi, và... ừm... bạn hình dung được tình hình rồi đấy.
Nhưng dĩ nhiên, nói vậy không phải là đã có chuyện gì đâu nhé - chán thế không biết.
Vấn đề là ở chỗ, giờ thì sẽ chẳng bao giờ có chuyện được nữa. Ý tôi muốn nói là bây giờ tôi thậm chí chẳng biết liệu còn điều gì có thể xảy ra được nữa hay không. Bởi vì anh ấy đã đi rồi.
Tôi không nói gì về điều đó cho Cha Dom cả. Tôi chỉ kể cho ông chuyện đã xảy ra, về Maria, con dao và bọn bọ, về chuyện Clive Clemmings đã chết, bức chân dung biến mất, người ta tìm thấy xác của Jesse ra sao, và giờ anh ấy đi mất rồi.
"Và anh ấy đã hứa với con," tôi nói nốt, có phần lộn xộn khó hiểu, bởi lẽ tôi đang khóc như mưa. "Anh ấy đã thề là chuyện không như thế, đó không phải là thứ còn níu giữ anh ấy ở lại đây. Nhưng bây giờ anh ấy đi rồi, và - "
Giọng Cha Dominic dịu dàng và bình tĩnh, trái ngược với những tiếng nấc liên tục của tôi. "Được rồi, Susannah," ông nói. "Ta hiểu. Ta hiểu mà. Hiển nhiên là đã có những điều xảy đến ngoài tầm kiểm soát của Jesse và, ừm, cả con nữa. Ta mừng vì con đã gọi cho ta. Con đã làm đúng. Giờ con nghe đây, và làm chính xác những gì ta bảo."
Tôi sụt sịt. Thật là dễ chịu - thậm chí tôi cũng chẳng biết phải diễn tả là nó dễ chịu thế nào - khi có một người bảo cho tôi biết phải làm gì. Thật đấy. Thường thì cái điều tôi ghét nhất là bị người khác bảo phải làm này làm nọ. Nhưng trong trường hợp này, tôi lại thực sự, thực sự cần điều đó. Tôi nắm chặt lấy cái điện thoại, nín thở chờ nghe những lời chỉ dẫn của Cha Dominic.
"Chắc con đang ở trong phòng mình, phải không?" Cha D hỏi.
Tôi gật đầu, và nhớ ra là ông không nhìn thấy mình, tôi bèn nói: "Vâng ạ."
"Tốt. Con đánh thức cả nhà dậy, và kể lại cho họ một cách chính xác những điều mà con vừa nói với ta. Rồi tất cả phải ra khỏi nhà. Hãy ra khỏi ngôi nhà đó, Susannah, càng nhanh càng tốt."
Tôi giơ cái ống nghe ra xa, nhìn nó như thể nó vừa mới kêu vào tai tôi những tiếng như tiếng cừu be be vậy. Thật đấy. Bởi lẽ điều đó nghe có nghĩa lý y như những gì Cha Dom vừa mới nói xong. Tôi lại áp cái ống nghe lên tai.
"Susannah?" Cha Dom đang nói. "Con có nghe thấy gì không? Ta hoàn toàn nghiêm chỉnh đấy. Đã có một người chết. Ta chẳng nghi ngờ gì chuyện rồi sẽ có ai đó trong gia đình con là nạn nhân tiếp theo nếu con không đưa họ ra khỏi đó."
Tôi biết mình đúng là một đứa điên khùng. Nhưng tôi vẫn còn chưa khùng đến mức đó đâu. "Cha D ơi," tôi nói. "Con không thể kể cho họ được - "
"Con có thể, Susannah ạ," Cha Dominic nói. "Ta luôn luôn nghĩ rằng bao nhiêu năm nay con giữ bí mật về tài năng đó đối với mẹ con là một sai lầm. Đã đến lúc con phải kể cho bà ấy biết rồi."
"Cha cứ làm như là con kể được ấy," tôi nói vào cái điện thoại.
"Susannah," Cha D nói. "Bọn côn trùng mới chỉ là màn khởi đầu thôi. Nếu cái người đàn bà tên de Silva đó đang dùng năng lực ma quỷ ám lấy ngôi nhà của con, thì những chuyện kinh khủng như là... ừm... những chuyện kinh khủng mà đến con và ta cũng không bao giờ có thể tưởng tượng nổi rồi sẽ xảy ra - "
"Dùng năng lực ma quỷ ám lấy ngôi nhà của con ư?" tôi nắm lấy cái ống nghe thật chặt hơn nữa. "Cha nghe đây, Cha D, cô ta có thể cướp đi bạn trai của con, nhưng cô ta sẽ không chiếm được nhà của con đâu."
Giọng Cha Dominic nghe như mệt mỏi. "Susannah," ông nói. "Xin con, hãy làm như lời ta nói. Cả con và gia đình hãy ra khỏi đó trước khi có tai hoạ nào xảy đến với bất kỳ ai. Ta hiểu con đang buồn vì chuyện Jesse, nhưng thực tế là, Susannah ạ, cậu ta đã chết rồi, còn con thì đang còn sống, ít ra là lúc này đây. Chúng ta phải làm tất cả những gì có thể để con được toàn mạng. Bây giờ ta sẽ về, nhưng phải lái xe mất sáu tiếng đồng hồ. Ta hứa sáng mai sẽ đến đó. Dùng nước thánh từ trong ra ngoài có thể xua được tất cả những linh hồn xấu xa còn đang quanh quẩn trong ngôi nhà, nhưng mà - "
Con Spike băng qua căn phòng, tiến về phía tôi. Tôi cứ tưởng nó sẽ lại cắn tôi như mọi khi, nhưng không phải. Thay vì vậy, nó tiến ngay đến chỗ mặt tôi và kêu lên một tiếng rất to, nghe thật buồn thảm.
"Lạy Chúa tôi," Cha Dominic kêu lên trong điện thoại. "Cô ta đấy à? Cô ta đã đến rồi à?"
Tôi vươn tay ra, gãi gãi phía sau cái tai còn sót lại của con Spike, kinh ngạc khi thấy nó thậm chí đang để cho tôi chạm vào. "Không ạ," tôi đáp. "Đó là con Spike. Nó nhớ Jesse."
Cha Dominic nói: "Susannah, ta biết việc này đau đớn đối với con đến thế nào. Nhưng con phải hiểu một điều rằng, cho dù bây giờ Jesse có đang ở đâu đi nữa thì anh ta cũng còn dễ chịu hơn so với suốt một trăm năm mươi năm qua đã phải mắc kẹt giữa thế giới này và thế giới bên kia. Ta biết là rất khó khăn, nhưng con phải cố lấy làm mừng cho anh ta, và con cần biết rằng, trên hết, anh ta muốn con phải biết tự chăm lo cho bản thân, Susannah ạ. Anh ta muốn con giữ cho bản thân con và cả gia đình được anh toàn - "
Trong khi lắng nghe Cha Dom nói, tôi nhận ra rằng ông có lý. Đó thực sự là điều Jesse mong muốn. Thế mà tôi thì lại đang ngồi đây, lê la trong bộ đồ ngủ rộng thùng thình, trong khi đang có việc cần phải làm.
"Cha D ơi," tôi ngắt lời ông. "Trong nghĩa trang gần Trường Truyền Giáo ấy ạ. Có người nào thuộc dòng họ de Silva được chôn ở đó không ạ?"
Cha Dominic sững người khi đang giảng giải bài an-toàn-là-trên-hết, và nói: "Ta - de Silva ư? Thực sự ta không biết, Susannah ạ. Ta không cho là - "
"Ôi, khoan đã," tôi nói. "Con cứ toàn quên thôi, cô ta đã cưới một gã mang họ Diego. Có một hầm mộ của dòng họ Diego, đúng không ạ?" Tôi cố hình dung ra cái nghĩa trang đó, một nghĩa trang nhỏ, bốn phía có tường cao bao bọc, ở ngay đằng sau cái nhà thờ xây sâu với hai dãy cột ở Trường Truyền Giáo, nơi Cha Dom làm việc và tôi đi học. Chỉ có một vài ngôi mộ ở đó, hầu hết là của các thầy tu, những người đầu tiên từng làm việc cùng với Junipero Serra, người sáng lập ra Hội Truyền Giáo Carmel từ hồi những năm 1700.
Nhưng một vài địa chủ giàu có hồi những năm 1800 đã xoay xở kiếm được chỗ để xây một, hai cái lăng tẩm ở đó bằng cách hiến tặng cho nhà thờ một khoản kha khá trong gia tài của họ. Và cái lăng lớn nhất - nếu tôi còn nhớ chính xác, kể từ hồi thầy Walden dạy môn Văn minh Thế giới dẫn cả lớp đến khu nghĩa trang đó để chúng tôi được tìm hiểu lịch sử địa phương - có khắc một từ Diego trên cánh cửa ra vào.
"Susannah," Cha Dominic nói. Lần đầu tiên trong giọng nói của ông đã phảng phất điều gì khác chứ không phải là sự thúc giục. Giờ đây ông có vẻ sợ. "Susannah, ta biết con đang nghĩ gì rồi, và ta... ta cấm con đấy! Con không được lại gần chỗ nghĩa trang, có hiểu ta nói gì không? Con không được lại gần hầm mộ đó! Việc này quá sức nguy hiểm..."
Đúng kiểu tôi thích.
Nhưng tôi không nói điều đó ra lời. Thay vào đó, tôi nói: "Thôi được rồi, Cha D. Cha nói đúng. Con sẽ đi đánh thức mẹ con dậy. Con sẽ kể hết với bà ấy. Và bảo mọi người ra khỏi nhà."
Cha Dominic quá kinh ngạc, trong cả phút đồng hồ ông không thể nói được câu nào. Cuối cùng, khi tìm lại được tiếng nói, ông bảo: "Tốt. Ừm... vậy thì tốt rồi. Đúng đấy. Hãy bảo mọi người ra khỏi nhà. Chừng nào ta còn chưa đến nơi thì đừng có làm điều gì ngốc nghếch, Susannah, ví dụ như đi gọi hồn người đàn bà đó chẳng hạn. Hứa đi."
Hứa đi. Cứ như thể những lời hứa còn có ý nghĩa. Cứ xem Jesse đấy. Anh ấy đã hứa với tôi anh sẽ không đi đâu hết, thế mà bây giờ anh đang ở đâu?
Đi rồi. Đi mãi mãi rồi.
Thế mà từ trước tới giờ tôi đúng là một kẻ hèn nhát nhất trên đời khi không nói cho anh biết tôi thực sự dành cho anh tình cảm như thế nào. Và giờ đây tôi chẳng bao giờ còn có cơ hội để nói ra điều đó nữa.
"Vâng, chắc chắn rồi," tôi nói với Cha Dominic. "Con hứa mà."
Nhưng tôi nghĩ thậm chí ông cũng hiểu rằng tôi chẳng hề thực sự có ý hứa hẹn gì hết.