Đoạn đường London – Plymouth dài khoảng ba trăm năm mươi kýlômét. John Singlair muốn tới đích trước khi trời đổ tối. Chàng thợ săn ma đi với tốc độ cao nhưng vẫn cần nhiều thời gian hơn định trước vì trên đường quá đông xe.
Khoảng sáu giờ chiều, John cũng đến được thành phố cảng. Đây không phải là lần đầu tiên tới Plymouth nên anh có quen đường chút đỉnh. Joh n biết áng chừng ngôi nhà tên triệu phú ở khoảng nào: Phía đông Plymouth, trong một dãy rừng bên kia thành phố.
Ngôi nhà rất khó tìm. John phải hỏi hai lần mới biết đường.
Theo một con phố hẹp trải nhựa đường uốn lượn như con rắn, chàng thanh tra đi tiếp cho tới khi gặp một ngã rẽ, một chiếc biển rất nhỏ chỉ hướng tới ngôi nhà.
John lái xe theo biển chỉ đường, rồi cuối cùng phải dừng lại trước một thanh barie chắn ngang. Một tấm biển giao thông cùng một tấm biển nhỏ cho anh biết, người ta cấm anh đi qua khuôn viên. Tấm biển còn ghi rõ: ai vi phạm sẽ bị trừng phạt.
John xuống xe. Anh đang đứng giữ một dải rừng hỗn hợp tương đối thưa, không gian mát và đầy bóng râm. Những tán lá lọc bớt nắng của mặt trời tháng bảy đã gần xuống núi. Tiếng chim ríu rít. Có con thỏ thoáng hiện rồi nhảy bằng những bước rất dài vào bụi rầm gần đó.
John Singlair khóa chiếc Bentley, rồi lấy đà nhảy qua thanh barie sơn đỏ trắng.
Một con đường trải sỏi dẫn thẳng qua cách rừng. Sau khoảng chừng nửa dặm, cánh rừng thưa ra và John thấy mình đứng giữa một công viên rộng lớn với những thân cây rất già và rất cao, cùng một thảm cỏ được chăm sóc cẩn thận. Con đường trải sỏi cắt thảm cỏ xanh ngắt thành hai nửa và dẫn thẳng vào tòa biệt thự. Anh quan sát kỹ ngôi biệt thự được xây theo phong thái kiến trúc thờ Victoria, trông như một lũy thành kiên cố.
Những bức tường rất giày, đồ sộ. Một thềm bằng đá thật rộng. Rất nhiều góc tường, đường viền và những khung cửa sổ rất cao, những miếng kính đang lấp lóa anh mặt trời. Không hề có dấu hiệu của một sự xuống cấp, mặc dù ông chủ nhà không sống ở đây nữa. Nhưng cũng không hề có một dấu hiệu của sự sống. Ngôi nhà khổng lồ gây ấn tượng trống rỗng, nhưng chàng thợ săn ma muốn tự mình xem lại cho chắc chắn.
Anh đi về hướng những bậc thềm được xây hai đầu bằng một cặp tường rất cao.
- Kìa ông! – John nghe một giọng nói vang lên từ phía lưng anh. Ông không biết là người lạ không được phép vào đây hả?
John đã đứng sát bậc thềm dưới cùng, anh xoay người lại.
Từ tong bóng tối của một bụi cây xùm xòa, có một người đàn ông đang tiến về phía anh. Một người làm vườn mẫu mực như vừa bước xuống từ một đoạn phim quảnh cáo. Ông ta đeo một chiếc yếm rất dài màu xanh, mặc một chiếc áo sơ mi kẻ ca rô và một chiếc quần nhung màu nâu. Khuôn mặt như được làm bằng những nếp nhăn, làn da rám nắng. Bên dưới vành mũ ló ra những lọn tóc đã bạc trắng. Bàn tay phải người đàn ông cầm một cái bình tưới cây.
John mỉm cười:
- Có lẽ ông là người làm vườn ở đây? – Anh tự tin hỏi.
Người đàn ông nhăn mặt khiến những nếp nhăn càng nổ bùng về số lượng.
- Thông minh quá đi! – Ông ta diễu cợt. – Nhưng bây giờ thì tìm cách biến khỏi đây ngay, nếu không sẽ gặp phiền toái đấy!
John lờ đi như không nghe thấy giọng nói hiếu chiến của người làm vườn.
- Ông chủ ngôi nhà này không có ở đây, đúng không?
- Không, anh cũng thấy đấy.
- Ông là người duy nhất đang canh chừng ngôi nhà sao? – Chàng thợ săn ma hỏi.
Ông thợ làm vườn lấy hơi thất sâu đáp.
- Tôi không biết chuyện này thì có kiên quan gì đến anh. Nhưng bây giờ anh biến đi hay là tôi thả chó cho chúng xé xác?
Giờ thì cả John Singlair cũng đâm bực bội. Thôi được, anh không phải là bạn bè của ngôi nhà này, nhưng anh cũng không muốn để người ta đối xử với anh như đối xử với mộ kẻ lang thang trộm cắp.
- Cảnh sát! – Chánh thanh tra nói và rút chứng minh thư ra.
Ông thợ làm vườn ngay lập tức tỏ ra bình tĩnh hơn. Bàn tay trai của ông ta cầm thẻ, đọc thật kỹ. Thế rồi ông ta trao thẻ lại cho John và trở nên thân thiện hơn.
- Xin lỗi ông, nhưng tôi không...
John phẩy tay.
- Bỏ đi. – Anh chỉ bằng ngón tay trái qua bờ vai. – Ông là người duy nhất ở đây hả?
Người thợ làm vườn chần chừ chưa trả lời ngay. John Singlair hiểu ông ta đang tìm cách né tránh.
- Ông Proctor không ở đây. – Cuối cùng người thợ làm vườn nói.
- Cái đó thì tôi biết. Tôi...
John dừng lại giữa câu, bởi giọng nói thô bạo của một người đàn ông khác bất ngờ chen tới.
- Ông nhặt đâu ra cái thằng đó, Jos? Nó muốn gây khó dễ hả?
John Singlair quay lại.
Từ phía Tây của ngôi nhà, một người đàn ông đang bước về phía anh. Gã mặc một bộ quần áo bằng da, loại dành cho phi công, tay cầm một khẩu súng. Nòng súng chỉ xuống đất, nhưng John đánh giá kẻ mới xuất hiện thuộc dạng người sẵng sàng chĩa vũ khí vào đồng loại mà không áy náy lương tâm.
Chàng thợ săn ma cảm nhận một sự co thắt khó chịu trong dạ dày mình.
Gã đàn ông dừng lại, đứng cách John ba bước chân. Gã có một mái tóc đen, cắt tương đối ngắn, một cái mũi ghồ ghề của dân đánh quyền Anh, hai con mắt thâm hiểm nằm rất gần nhau. Cằm gã có một vết sẹo màu đỏ như một minh chứng cho sự bất lương.
- Thế nào? – Thằng đàn ông hất mặt. – Mày làm cái gì ở đây?
- Rick, ông này là...
Tên phi công khó chịu quay đầu lại.
- Ông ra ngoài kia, Jos! Đi làm việc của ông đi! Chần chừ là biết tay tôi đấy!
Ông già làm vườn nhún vai, ngoan ngoãn mỉm cười rồi cất bước.
John Singlair giơ tay rút thuốc lá. Ngay lập tức nòng súng của kẻ đứng đối diện giật lên cao. Chàng thợ săn ma ngạc nhiên nhướng lông mày.
- Ông có lối nói chuyện thân thiện đấy, tôi phải công nhận là như vậy.
- Mày muốn gì?
John khoan thai rút một điếu thuốc ra khỏi bao, châm lửa. Rồi thong thả và thích thú hít một hơi thật sâu.
- Thật ra tôi muốn nói chuyện với ông Proctor.
- Ông ta không có ở đây.
- Thế thì chắc chắn ông là đối tác thích hợp.
- Tao không ti như thế. – Tên phi công mà hầu như không chuyển động môi. – Tốt nhất là mày biến ngay đi. Và đừng có quay trở lại. Nếu không sẽ gặp phiền toái đấy.
- Hay là ông gặp phiền toá? – John hỏi.
Tên đàn ông cười lạnh lùng.
- Mày đe dọa tao hả?
- Còn ông muốn bắn chết một cảnh sát viên phải không?
Tên phi công nhăn trán.
- Tại sao lại là cảnh sát viên?
- Scotland Yard! – Lần thứ hai trong vòng chỉ năm phút đồng hồ, John phải chìa chứng minh thư của mình ra. Anh thấy tên phi công thoáng giật mình khi nghe thấy chữ cảnh sát.
- Thì đã sao? – Gã hỏi vẻ khiêu khích. – Anh muốn gì ở tôi? - Tuy nhiên gã cũng chúc mũi súng xuống.
- Tôi muốn gặp ông Proctor!
- Ông ấy không có nhà!
John mỉm cười.
- Thế thì dẫn tôi tới gặp ông ấy, ông...mà tên ông là gì nhỉ?
- Rick Terry!
- Tốt, ông Terry. Ông sẽ dẫn tôi đến gặp ông Proctor.
Rick Tery lắc đầu.
- Tôi không làm được.
- Tại sao?
- Bởi bản thân tôi không biết ông Proctor đang ở đâu.
John lấy hơi thật sâu, rồi anh nói:
- Tôi vốn là người không ưa chiến tranh. Nhưng tôi không chịu nổi một điều, đó là dối trá. Mà rõ ràng là anh đang nói dối. Trước khi đến đây, tôi đã được cung cấp đầy đủ thông tin. Tôi biết ông Proctor đã mu một hòn đảo, và khi nhìn thấy anh trong bộ quần áo phi công này, tôi thấy rõ ràng là anh đang nắm giữ sợi dây liên lạc với Proctor, chắc chắn là qua đường trực thăng. Đâu có ai thích mặc bộ đồ chật chội đó cả ngày lẫn đêm. Vậy anh định đi và hẳn sẽ bay ra hòn đảo của Proctor. – John cười lạnh lùng. – Nếu tôi phỏng đoán sai thì cứ bình tĩnh mà sửa lại đi.
Nét mặt Rick Terry đã nhợt ra khi nghe John nói.
- Không, anh đoán không sai. Nhưng cũng chẳng có ích gì đâu! Giơ tay lên!
Nhanh như chớp, tên phi công chĩa nòng súng về phía chàng chánh thanh tra. Một tia sáng nguy hiểm bùng cháy trong con mắt hắn. John tự mắng mình là đồ ngu, bởi đã không bắt tên phi công buông vũ khí ra. Anh tưởng hắn biết sợ quyền lực nhà nước. Rõ là một sai lầm nghiêm trọng.
- Ông muốn giết một cảnh sát viên thật hả? – Chàng thợ săn ma hỏi, đưa hai cánh tay lên cao.
- Nếu không còn cách nào khác thì sẽ giết. Mà trong trường hợp này thì không còn cách nào khác thật. Xoay lại!
John Singlair tuân lệnh.
Qua khóe mắt, anh nhận thấy tên phi công vẫn giự một khoảng cách an toàn. Ra gã là một tay chuyên nghiệp. Chàng thợ săn ma bây giờ không có cơ hội nhảy bổ về phía hắn mà không lãnh đạn. John mím chặt đôi môi. Rick Terry co vẻ hoàn toàn không ngại việc đưa một viên cảnh sát sang thế giới bên kia. Một tình huống kỳ quái. Những gì mà ma quỷ không làm nổi, thì tay ohi công này có thể thực hiện với chỉ duy nhất một viên đạn tầm thường.
Những khuôn mặt nhợt nhạt không còn chút sắc máu dường như bất động. Aùnh đèn trên tường phả ra một màu xanh lá khiến làn da những nạn nhân trông như da những xác chết đã làm quen với huyệt mộ. Đấy là cảnh ghê rợn trong một căn hầm.
Căn hầm đó nằm rất sâu dưới mặt đất. Nó được trang bị tương đối đầy đủ. Có ghế độn nệm, có nhiều giường và bàn. Nền được trải thảm. Chỉ những bức tường bằng đá lởm chởm là đi ngược lại bức tranh toàn cảnh.
Cùng với nhóm người mới tới, bây giờ có tất cả mười một con người đang ngồi trong tầng hầm. Người ta xuống đây qua một đoạn thang sắt, dẫn từ lô cốt xuống cái hang nằm dưới mực nước biển.
Cánh cửa sắt đóng lại sau lưng Adam Preston với một âm thanh trầm đục. Nghe như tiếng nắp quan tài sập xuống.
Những người mới ngạc nhiên đưa mắt nhìn. Một người đàn ông khá cao tuổi đứng dậy từ một chiếc ghế dài. Mái tóc ông bạc trắng, , rối bù. Ông mặc một bọ complê sờn cũ.
- Xin đón chào những người chiến bại. Ông khàn khàn nói rồi đưa tay khoát quanh, chỉ vào nhóm những người kia. – Chúng tôi ngồi đây đã tr6n một tuần rồi. Chỉ còn một chuyến hàng nữa thôi là tất cả chúng ta sẽ bị đưa lên tàu.
Linda và Mary bắt đầu khóc. Hai người chồng dẫn vợ về những chỗ ghế còn trống.
Adam Preston đứng giữa căn phòng bất bình thường đó, chăm chú nhìn quanh. Anh phát hiện ra bốn ống kính thep dõi được gắn ở bốn góc trần phòng. Người đàn ông tóc trắng nhận ra ánh mắt của anh.
- Đúng thế. – Ông nói. – Chúng ta bị quan sát. Họ nắm chúng ta cả ngày lẫn đêm, nhưng chúng tôi đã quen rồi.
Adam Preston nhún vai. Mặc dù bề ngoài ra vẻ chán nản, nhưng thật ra trong lòng anh chưa chịu đầu hàng. Chỉ cần có cơ hộ là Adam sẽ tìm cách thoát ra khỏi cái bẫy này ngay.
Ánh mắt anh bắt gặp những người đến trước và bắt gặp những nét tuyệt vọng chán nản hiện rõ trên những khuôn mặt ấy. Nhóm người ở đây đã chấp nhận hoàn cảnh hiện tại một cách bi đát.
- Căn phòng này còn cửa thứ hai không? – Adam Preston hỏi ông già tóc trắng.
- Còn. Nó là lỗ thông hơi. – Người đàn ông đưa tay chỉ lên trần.
- Vậy thì người ta có thể...- Adam nheo mắt, đưa tay xoa cằm.
- Ý anh muốn nói là chạy trốn? – Ông già tóc bạc cười lớn. – Không trốn được đâu. Anh đừng quên bốn ống kính canh chừng.
- Không thành vấn đề!
Trong vài giây, mối quan tâm cháy lên trong mắt người đàn ông già nua.
- Anh có kế hoạch hả?
- Có lẽ...- Adam Preston chưa muốn nói ra những suy nghĩ của mình. – Thức ăn được đưa đến đây bằng cách nào? – Anh hỏi.
- Chúng nó thả một cái làn qua lỗ thông hơi. Mọi đồ ăn ở trong đó. Sau khoảng ba mươi phút chúng nó lại kéo làn lên.
Adam Preston đưa mắt nhìn lỗ thông hơi. Anh bước đến dưới miệng lỗ, ngửa đầu ra sau gáy, nhìn lên. Một luồng khí lạnh phả xuống mặt khiến Adam phải nhắm mắt. Luồng khí lạnh rất khó chịu. Lỗ thông hơi bên trên không rộng. Nhưng có thể là cơ hội lý tưởng cho một người đàn ông muốn chống tay chân lên tường mà trèo lên.
- Anh muốn thoát ra bằng đường lỗ thông hơi? – Ông già tóc bạc thì thào.
- Đúng.
- Anh quên mấy những ống kính canh chừng.
- Đó là chuyện nhỏ nhất. – Adam Preston đưa tay chùi trán. Cả những tù nhân khác cũng quay lại, nhìn dồn về phía anh. Trong vài cặp mắt đang lóe lên một thứ anh sáng có thể được coi là hy vọng. Người đàn ông đang đứng dưới lỗ thông hơi kia hình như biết rất rõ anh đang muốn gì.
- Bao giờ thì lại có thức ăn? – Adam hỏi.
- Còn lâu. Nó là bữa điểm tâm.
Adam Preston nhìn đồng hồ. Bên ngoài kia trời đã phải sáng từ lâu rồi. Bây giờ là sáu giờ. Người đàn ông nghĩ có lẽ phải hai tiếng đồng hồ nữa mới đến bữa sáng.
Anh vẫn còn đủ thời gian.
- Tôi tìm cách đây. – Adam Preston quả quyết nói.
Cliff Kelland đứng dậy.
- Anh nói thật hả?
Adam Preston gật đầu.
- Dĩ nhiên rồi. Và một khi đã ra tới ngoài kia, thể nào tôi cũng tìm được một con đường rời đảo. Chắc chắn bọn chúng ở đây phải có một con thuyền.
- Anh quên mất bọn ma hải tặc. – Ông già tóc bạc nói.
- Ai không liều sẽ không chiến thắng. Đằng nào thì cũng chết. Gặp bọn chúng thì đã sao? Bọn mình ở đây không bi nghe lỏm, đúng không?
- Ít nhất thì cho đến nay tôi cũng chưa nhận ra hiện tượng đó. – Người đàn ông tóc bạc đáp lời.
- Thấy chưa, thế thì rất tốt. Vậy là ta quan tâm đến mấy cái ống kính kia đã. Ta chọn cái ống kính đứng đối diện với lỗ thông hơi. Cliff Kelland, anh là người khỏe mạnh nhất ở đây. Anh có chịu được trọng lượng của tôi không?
Cliff nhìn Adam.
- Tôi hy vọng là được.
- Tốt lắm, ta bắt đầu thôi!
Adam Preston cởi áo khoác ra, đi về hướng ống kính quay phim đã chọn. Anh đang hy vọng vào sự lười biếng của con người. Chắc chắn chẳng có kẻ nào ngồi trước màn hình và theo dõi cả ngày lẫn đêm, chăm chú quan sát tù nhân suốt hai mươi tư tiếng đồng hồ. Mà cũng rất có thể những ống kính này chỉ cắm giả vờ vào đây để dọa nạt họ. Ngoài Basil Proctor và Ali, Adam Preston chưa nhìn thấy một người thứ ba nào trên đảo. Hai tay đó chắc chắn có nhiều việc khác phải làm, thay vì suốt ngày ngồi ôm lấy cái máy màn hình canh chừng. Cliff Kelland đặt hai bàn tay lên nhau, tạo thành một bậc thang tạm thời cho Adam Preston trèo lên. Adam đã kẹp cái áo khoác xuống dưới nách anh.
- Mọi người chúc cho tôi gặp may đi! – Adam nói.
Anh giơ thật cao chân phải, bước lên trên hai bàn tay đang khom lại. Thế rồi, anh rút chân kia khỏi mặt đất. Tất cả mọi người trân trối nhìn anh.
- Hy vọng là thành công. – Linda Grey thì thào.
Cliff Lelland lảo đảo trước sức nặng cơ thể của anh chàng liều lĩnh. Adam Preston tóm thật chặt hai bàn tay vào vai anh ta.
- Cố giữ nào. – Anh nói khẽ.
- Vâng...
Adam Preston từ từ đưa người lên cao. Rồi anh nhấc chân trái, đặt nó lên vai Cliff.
Người đàn ông bật tiếng rên, oằn người chịu đựng.
- Đừng sợ. - Adam Preston thì thào. – Tìm cách lùi nửa bước.
Cliff làm theo chỉ dẫn.
Những tù nhân khác nín thở chờ đợi. Theo dõi và hy vọng. Cliff Kelland bây giờ đã đứng sát tường. Adam Preston hơi ngả về phía trước một chút, chống hai tay vào tường.
- Tuyệt lắm. – Anh nghiến răng nói. Thế rồi anh giơ chân phải lên, cầm áo khoác lên tay và nhanh như chớp trùm nó lên đầu ống kính. Adam Preston gặp may, móc treo của áo khoác vướng ngay vào một cạnh nhọn nào đó của ống kính quay phim.
Adam Preston nhảy khỏi vai Cliff.
- Tuyệt lắm. – Anh kêu lên khi đã đặt chân xuống đất. – Anh làm tuyệt lắm.
Cliff Kelland tựa lưng vào tường, giơ cùi tay quyệt mồ hôi trán. Cả thân hình run rẩy. Người đàn ông tóc bạc nhảy lên, giơ tay đập vào vai Adam Preston.
- Giờ thì tôi cũng tin là có thể được. Ông vui mừng nói, hai mắt sáng rỡ.
Adam Preston phẩy tay.
- Chầm chậm đã, từ từ thôi, anh bạn thân mến. Phần việc nặng nề nhất vẫn còn nằm ở phía trước. – Anh vỗ nhẹ vào tay Cliff Kelland. – Anh còn sức để làm lại lần nữa không?
Cliff cười dũng cảm.
- Nếu cần thiết thì có lẽ được.
- Thế thì tốt, bắt đầu thôi. Nhưng giờ chúng ta đứng dưới lỗ hổng kia. Thử xem có được không?
Họ thử thật. Hai lần thất bại. Thế rồi Nathan Grey và một người đàn ông nữa tiế tới đứng sát bên Cliff, cho Adam Preston một chỗ đứng tốt hơn.
Trót lọt. Thành công thứ hai lại đến sau một hồi vất vả. Nhưng người đàn ông giơ tay đỡ lấy đế giày của Adam Preston và nâng lên cao.
Những ngón tay Adam Preston sờ vào thành tường bên trong lỗ thông hơi. Chúng xù xì và rất nhiều vết nứt, rất tốt cho việc trèo lên cao.
- Đẩy mạnh lên. – Anh nói.
Thêm những người đàn ông khách nhảy ra trợ giúp. Họ đẩy Adam Preston lên phía lỗ thông hơi. Hình như phía bên kia không nhận biết gì về kế hoạch chạy trốn này, cả Basil Proctor lẫn Ali đều chưa xuất hiện. Nửa người bên trên của Adam Preston đã chui vào được ống thông hơi. Những ngón tay phải tìm thấy mộ khúc tường lồi nho nhỏ và bám chặt vào đó. Giờ thì anh có thể rút hai chân lên, dạng chúng ra và đạp chắc vào hai bên tường.
- Tốt lắm, các bạn, ngồi cầu nguyện cho tôi nhé! – Anh gọi xuống dưới, giọng nhỏ nhẹ.
Những tù nhân bên dưới bối rối, không biết nên làm gì giúp anh hành động tốt hơn.
Adam Preston bắt đầu trèo lên. Từng chút, từng chút một, anh nhích lên cao. Quần áo anh rách tươm ra nhưng anh không để ý. Có thể thay một bộ complé, nhưng không thể thay tính mạng một con người. Da trên đầu ngón tay tróc rách. Máu nhỏ dọc hai bàn tay Adam Preston. Cả điều đó cũng không khiến người đàn ông nhụt chí. Đối với anh bây giờ yếu tố đáng kể là tự do.
Và anh cứ tiếp tục lên cao mãi trong bóng tối của lỗ thông hơi. Cứ mỗi lần bám tay lên cao hơn một chút, anh lại gập chân rồi kéo chân lên theo.
Chẳng bao lâu, thân hình anh ướt đẫm, mồ hôi chảy thành từng dòng trên mặt và trên da, nhưng Adam Preston không đầu hàng. Anh không cho phép mình nghỉ lấy một giây. Cuối cùng, người đàn ông không biết mình đã trèo được bao nhiêu mét nhưng làn khí thổi xuống khuôn mặt của anh đã mỗi lúc mỗi mát hơn, thoáng hơn Anh hy vọng.
Thế rồi Adam Preston đã tìm thất một vệt sáng. Anh đã tới gần mục tiêu. Người đàn ông cố gắng gấp đôi. Đột ngột, những ngón tay bên phải sờ vào rìa lỗ.
Thành công!
Adam Preston lúc này có thể hét lên vì sung sướng. Nhưng anh cố kìn nén. Trút hết sức lực, anh co người lên, rút thân hình ra khỏi lỗ thông hơi và nằm ra ngoài trời.
Người đàn ông nhắm mắt lại vì chói. Anh đang ở bên một dãy bụi rậm mọc trên đầu một vách đá có hai bên thành bị nước bào trơ trọi.
Thở hổn hển, anh nằm đó. Tiếng sóng biển rì rào bây giờ là âm thanh đẹp đẽ nhất mà hình như đã lâu lắm rồi anh mới được nghe lại.
Anh không biết anh đã nằm bao lâu. Tới một lúc nào đó, Adam Preston đứng dậy. Đầu tiên muốn gọi xuống dưới cho những tù nhân biết rằng anh đã thành công, thế rồi anh thay đổi ý định, không nên đánh thức Proctor hoặc Ali.
Trầm ngâm, người đàn ông đứng bên trên, nhìn theo lỗ thông hơi xuống dưới. Cái lỗ được đào tương đối đơn giản. Chỉ cần trời đổ một cơn mưa thật lớn là nước sẽ lọt xuống dưới kia. Nhưng có lẽ Basil Proctor cũng đã có giải pháp cho trường hợp đó.
Adam Preston lên dường ra bãi cát. Tường bê tông của lô cốt cách anh chẳng mấy xa. Anh muốn tìm một con thuyền, một con thuyền ít nhất cũng giúp anh rời đảo.
Chẳng khó khăn gì, anh ra tới bãi cát. Basil Proctor và tay Ả Rập hoàn toàn mất bóng. Sự tình cờ đưa đẩy người đàn ông đến cái vịnh nhỏ mà Jerry Flint đã hạ cánh. Và ở đó, chúng tóm được anh.
Bất chợt, Adam Preston nghe thấy những giọng người lao xao vang lên, rồi đến tiếng cười tởm lợm của một gã đàn ông.
Người con trai biết rằng, mọi cố gắng vậy là uổng phí.
Rick Terry ra lệnh cho John Singliar đi ra phía sau ngôi nhà. Chàng thợ săn ma nghe tiếng bước chân của kẻ canh chừng nghiến lạo xạo trên lớp sỏi. Những suy nghĩ nóng lên trong đầu. Anh tìm một con đường thoát, anh biết, nếu không cân nhắc cẩn thận thì kết quả sẽ là một viên đạn găm vào người anh mà thôi.
Cả ở phía sau ngôi nhà, thảm cỏ vẫn được cắt rất sát và rất đều. Tại một số chỗ, cỏ gây ấn tượng như bị rất nhiều dấu chân người đạp lên.
John nhìn ra nguyên nhân.
Một chiếc máy bay trực thăng loại Sikorsky đang đứng giữa tấm thảm xanh ngắt. Một chiếc máy bay sơn màu xanh lục thẫm với những càng đỗ rất rộng và không hề mang biển hiệu.
John đi về hướng máy bay trực thăng.
- Đứng lại! – Anh nghe giọng Rick Terry hét sau lưng.
Chàng thợ săn ma tuân lệnh rồi nói.
- Ông muốn bắn vào sau lưng tôi hả?
Rick Terry cười khúc khích.
- Sáng kiến không đến nội tồi. Nhưng tao muốn làm người nhân đạo. Thằng cớm kia, mày sẽ ăn đạn từ trước mặt. Quay lại!
John Singlair quay người lại. Hai tay anh vẫn giơ cao ngang vai.
Rick Terry đứng trước mặt anh, cười trâng tráo.
- Sợ không?
John gật đầu.
- Có.
Tay phi công cười ré lên như một con ngựa hí. Gã đã kẹp khẩu súng vào trong khỷu tay phải. Ngón tay trỏ nằm trên cò. Cách cầm vũ khí cho thấy gã là một tay bắn xuất sắc.
- Thế mà tao cứ tưởng bọn cớm chúng mày không biết sợ. Chúng mày luôn ra vẻ thế mà.
- Chắc anh chỉ tưởng tượng theo phim ảnh. – John Singlair đáp.
Rick Terry lại cười phá lên.
- Mày muốn được ăn đạn ở đâu hả? Vào đầu? Vào ngực? Chọn đi!
John Singlair im lặng nhìn gã đàn ông. Anh tìm cách tính xem anh có bao nhiêu thời gian để tránh đạn. Chắn chắn là chẳng có giây đồng hồ nào. Và Rick Terry cũng biết điều đó.
Điều mà hắn không biết cũng nhưng không hề nhìn thấy được là ông làm vườn đã rón rén đi quanh góc nhà. Oâng kiễng chân lên, tay phải cầm một cây gậy gỗ.
Hiện thời, khoảng cách giữa ông và Rick Terry còn khoảng chừng hai mươi mét.
Một khoảng cách dài đến khủng khiếp, nếu tình huống đã đến mức phải đếm từng giây đồng hồ thì xem như quá trễ.
Rick Terry cong ngón trỏ.
- Vĩnh biệt hả, thằng cớm. - Gã nhăn mặt nói...
- Khoan! – John hét lên khiến tay phi công chần chừ, mất đi vài giây đồng hồ. Cơ hội cho người làm vườn lao tới.
Ông già đã thẳng chân chạy những mét cuối cùng, chấp nhận cả mối nguy hiểm bị Rich Terry nghe thấy. Tên phi công xoay người lại, nhưng đó cũng chính là tích tắc mà khúc gậy gỗ bổ xuống đầu hắn. Vì chuyển động quá đột ngột của gã, khúc gỗ không đập trúng vào xương sọ tên gangster mà giáng vào vai trái hắn.
Rick Terry gào lên, tay còn cố bóp còi. Đoành! Viên đạn sát sạt qua người làm vườn, ông này hốt hoảng lùi về.
Rick Terry không còn cơ hội để bóp cò lần thứ hai, bởi lúc đó John Singlair đã tới sát bên. Và anh chỉ cho hắn biết, cảnh sát viên không phải chỉ biết sợ, mà còn biết chiến đấu. Cú đá trúng vào hõm khuỷu chân, đập tên phi công thâmhiểm té xuống mặt đất. Rick Terry ngã xuống nhưng nhổm lên ngay lập tức, tìm tất công John.
Thêm một lần nữa, bàn chân John lại làm việc. Khẩu súng bị đá văng khỏi tay Rich Terry, nằm lại cách đó vài mét. Rick Terry cong người, muốn nhảy lên. John giật phắt hắn về phía sau. Trong một giây đồng hồ, anh nhìn khuôn mặt nhăn nhúm của tên phi công ngay sát mặt mình, thế rồi quả đấm bên phải của anh thọc từ dưới lên, thẳng hướng cằm đối phương. Gã phi công hầu như bị đẩy bay ra khỏi giày. Gã quay nửa vòng trên không tring rồi rơi độp xuống nền cỏ, nằm ngửa ra đó với đôi mắt trợn ngược.
John thổi nắm đấm cho đỡ đau.
- Ôi trời! – Ông già làm vườn rên lên. – Quả đấm của ông nặng ký ghê!
John mỉm cười. Anh cúi xuống nhặt súng, tháo đạn. Rồi anh ném những viên đạn ra xa và bắt tay ông già làm vườn.
- Ông đã cứu mạng tôi. – Anh nói. – Cảm ơn ông rất nhiều!
Khuôn mặt người làm vườn đỏ lên. Ông già lúng túng không biết nói năng gì. Cuối cùng ông bảo:
- Chuyện dĩ nhiên mà, làm sao tôi có thể đứng nhìn một vụ giết người.
- Chẳng phải ai cũng giám hành động như ông đâu. – John đáp lời. Anh chỉ về phía tên phi công đã ngất đi. – Ta có thể đưa hắn đi đâu được? Ông có chìa khóa vào nhà không?
- Chìa khóa Rick cầm! – Ông già đáp.
John Singlair khám những túi quần túi áo trên bộ đồ phi công và tìm được chìa khóa. Ông làm vườn lúc đó đã đến bên cửa sau ngôi nhà. Ông đứng nhìn John Singlair vác tên phi công lên vai, khuân hắn ta về phía bậc thềm.
- Ông đưa chìa khóa cho tôi. – Ông già làm vườn bảo.
John làm theo, và người làm vườn mở cửa ra. Họ bước vào một dãy hành lang hẹp, dẫn ngang qua những căn nhà kho. Khôg khí trong nhà bốc mùi ẩm thấp, ngột ngạt trộn với mùi khói thuốc đã cũ.
Hành lang dẫn tới một phòng khách, mặc dù được trang trí đắt tiền nhưng không hề gây cảm giác ấm áp. Những cụm ghế bành bọc da, những chiếc bàn bằng đá hoa cương, những cáo đèn đứng kiểu cổ. Tất cả rèm cửa đều được kéo kín mít.
John đặt gã đàn ông đã ngất lên một chiếc ghế hình bán nguyệt. Cằm Rick Terry đã đổi màu xanh. Ngọn đòn của John quả thật đã đập trúng đích như một cú đá trời giáng.
Ông làm vườn cười.
- Gã cũng xứng được xử thế này từ lâu.
John mời ông hút thuốc. Nhưng ông từ chối.
- Cảm ơn, tôi không hút. Phải giữ lá phổi, ông biết không?
John gật đầu, song cho phép mình hưởng thụ một điếu.
- Ông có biết gì về những chuyện xảy ra gần đây không? – Anh hỏi ông làm vườn.
- Hầu như không.
- Nhưng ông có quen ông Basil Proctor?
- Có. Tôi có nhìn thấy ông ta một vài lần, nhưng không nói chuyện. Tôi chỉ biết làm việc và nhận tiền, thế thôi.
- Ông có biết là ông Proctor đã mua một hòn đảo? – John hỏi.
- Không. – Hai mắt người làm vườn mở to. – Vì vậy Rick Terry hay bay như thế.
- Ông tin hắn bay ra đảo phải không?
- Có lẽ. – Ông thợ làm vườn ngồi xuống. – Ông biết không, Basil Proctor là một người kỳ quặc.
- Ông ấy hầu như chẳng nói chuyện với ai. Một người cô độc thật sự. Thỉnh thoảng ông ta lại đưa những cô gái trẻ về đây, những cô gái rất trẻ, hầu như chưa hết tuổi học trò. Ông ta làm gì với bọn chúng, thật tôi không muốn nói, nhưng nhiều khi tôi nghe thấy những âm thanh rất kỳ quặc. Mà tường của nhà này vốn được xây rất giày. Nhưng chắc là Rick Terry có thể nói chi tiết hơn về chuyện đó.
- Nếu hắn tỉnh dậy.
Ông thợ làm vườn nhổm lên.
- Để tôi đi lấy xô nước. Dùng cái này là ai ngất cũng tỉnh ngay. Ở trong phim người ta cũng làm như vậy.
John bật cười. Chỉ một lúc sau, ông thợ làm vườn đã quay trở lại với một xô nước đầy.
- Tôi đã mong ước được làm chuyện này bao nhiêu lần rồi. – Ông ta cười, giơ xô nước lên, trút toàn bộ chỗ nước đó vào mặt Rick Terry.
Nước không phải chỉ đổ xuống đầu tên phi công, mà còn chui vào bên trong bộ đồ da và tràn vào ghế sofa. Động tác đổ nước quả mang lại hiệu ứng mong đợi. Rick Terry rên lên, thế rồi gã bắt đầu sặc sụa và nổi một cơn ho dữ dội. Cuối cùng bối rối, gã mở mắt ra.
John lúc đó đã ngồi xuống chiếc ghế sofa thứ hai, xoay ghế làm sao để anh nhìn thẳng vào mặt Rick Terry.
Ông thợ làm vườn đứng thẳng người cạnh cửa. Ông quan sát gã phi công tỉnh dậy bằng niềm vui không giấu giếm.
- Tôi hy vọng là ông đã ngủ đủ. – Chàng thợ săn ma nói khi Rick Terry nhìn anh.
Tên phi công nhổm dậy, nhưng rồi hắn nhăn mặt lại vì đau. Hành động vừa rồi quá vội vàng. Hắn đưa bàn tay phải chùi ngang mắt, quệt đi những giọt nước tèm lem.
- Đừng có vào vai người chết. – John nói. – Đòn chưa mạnh đến mức đó đâu. Nếu xét đến chuyện anh định giết tôi thì như thế còn may đấy.
- Cút xuống địa ngục đi! – Tên phi công rít lên.
- Mời anh đi trước, anh bạn thân mến! Nhưng trước đó thì hai ta phải bay cái đã. Bay về đảo của Proctor. Chuyến bay tới được lên kế hoạch lúc mấy giờ?
- Tôi không biết anh nói chuyện gì.
- Nhưng mà tôi thì biết. – Ông già làm vườn chen vào.
- Mày câm mõm lại đi, Jos. – Rick Terry phun phì phì.
- Không. Tôi sẽ nói cho ông biết. – Ông thợ làm vườn bước lại gần. – Rick Terry muốn bay tối hôm nay. Gã đã nói với tôi như vậy trước đây vài tiếng đồng hồ.
- Về đảo của Proctor phải không? – John hỏi.
- Tôi đoán thế.
- Cảm ơn ông, Jos. – Chàng chánh thanh tra quay trở lại với tên phi công. – Ra là tối nay anh bay. Thôi được, lần này anh không bay một mình. Tôi sẽ ngồi đằng sau anh trong buồng lái.
Rick Terry nhình John chăm chăm bằng hai con mắt nheo nhỏ. Chàng thợ săn ma đoán ra những suy nghĩ nào đang ẩn hiện đằng sau vầng trán kia.
- Đừng có giở mánh, anh cầm lái! Nếu cần thì mình tôi cũng đủ sức lái máy bay.
Rick Terry im lặng cười.
- Bao giờ anh lên đường? – John hỏi.
- Vài giờ đồng hồ nữa. – Hai con mắt Rick Terry vụt sáng lên. – Thôi được, thằng cớm, mày có thể đi cùng. Tao thậm chí còn rất vui nữa là đằng khác. Nhưng đừng có ngạc nhiên đấy! Họ sẽ giành cho mày một buổi đón tiếp trọng thể, yên tâm đi!
- Cứ chờ xem! – John Singlair vẫy tay về hướng người làm vườn. – Ở trong nhà này có phòng nào cho anh bạn chúng ta nghỉ ngơi yên ấm một chút được không?
- Có, phòng để chổi.
Chàng thợ săn ma gật đầu.
- Tốt lắm, còn chờ gì nữa? Đứng dậy đi, Rick Terry. Và đừng có giở mánh, chỉ thiệt vào thân anh thôi.
Rick Terry vừa rên rỉ vừa nhỏm người lên. John đạp cái ghế sofa ra phía sau và cũng đứng dậy. Anh cảnh giác như một con cáo. Và quả thật, tay phi công giở trò. Đột ngột, gã ném mình về phía trước. Cả hai nắm đấm muốn thọc thẳng vào người John.
John xoay đi. Hai nắm đấm kia trượt ngang hông anh, vậy mà vẫn còn đủ lực khiến anh lảo đảo. Chàng chánh thanh tra chạm người vào ghế sofa, rồi nghiêng người qua tay ghế, ngã vào lòng ghế.
Rick Terry lao tới.
Chàng thợ săn ma phi cả hai chân về phía trước. Trúng thẳng vào ngực đối phương.
Như bị bắn bằng một giàn phi tên lửa, tên phi công bật ngửa về phía sau. Hai tay gã chới với, tìm cách giữ thăng bằng nhưng vô ích. Một cái tủ buýp phê chặn ngang đường bay không trực thăng của Rick Terry. Nhanh như tia chớp, John Singlair đã đến bên. Lần này anh sử dụng cánh tay.
Rên lên một tiếng, Rick Terry gục xuống sau cú chặt. Gã ngã xấp xuống nền thảm trải phòng và không động đậy nữa.
- Ôi khốn kiếp! Thằng này dai sức thật. – Ông thợ làm vườn nói.
John gật đầu.
- Đúng đấy, hắn dai sức thật. Ông làm ơn lấy hộ một đoạn dây để ta trói hắn lại.
Ông thợ làm vườn kiếm được một đoạn giây nylon. John Singlair trói gã con trai theo đúng kỹ thuật đã được luyện tập, rồi để gã nằm trên nền thảm. Bây giờ anh mới nhìn thấy Jos vừa mới mang thêm một thứ khác tới. Một túi đựng bản đồ. Ông thợ làm vườn đập bàn tay lên lần túi da.
- Đây là bộ đồ bay của Terry. Ông thử nhìn xem, có thể nó giúp được ông.
- Cảm ơn ông nhiều. – John cầm lấy chiếc túi.
Anh mở khóa, rút ra một cặp hồ sơ bọc da màu xanh, tờ ở trong đó được sắp xép rất nghiêm chỉnh. John xem kỹ bản đồ bay. Trên bản đồ có ghi bán đảo Cornwall. Thị trấn Devotown được khoanh tròn bằng mực đỏ. Và bên cạnh đó là một con số chỉ thời gian.
Nửa đêm!
Chàng chánh thanh tra cân nhắc. Có cái gì đó khiến anh suy nghĩ. Anh xoay bản đồ lại. Đằng sau bản đồ có ghi năm tên người, đó là: Philip Pullman, Harry Quiller, Ty Queston, Morton Graves, Phil Slater.
John nhăn trán, suy nghĩ. Anh chỉ cho ông thợ làm vườn đọc năm cái tên đó.
- Ông có biết những người này không?
- Không. Hoàn toàn không quen. Tôi cũng không biết thế này có nghĩa gì.
John Singlair đút những tờ giấy vào trong túi.
- Nhưng qua tối hôm nay thì chắc chúng ta sẽ hiểu ra. Tôi đoán đêm tới này sẽ là một đêm rất dài...