Đem so sánh các tỉnh rải rác trên quãng đường thiên lý chạy từ Hà Nội đến Huế, thì có lẽ hạt Đồng Giao là chỗ độc địa hơn cả. Sở dĩ nước độc, tại vì bốn chung quanh hạt toàn là rừng rú, ngàn nội, truông sậy bãi lau; nhưng lá cây mục nát từ thủa xưa còn chồng chất cả trên mặt đất, trong lòng suối, khiến nước xanh lè như màu rêu, hoặc đục váng lên như nước ao tù.
Những cây cỏ thường hay giữ lấy hơi nước, không cho tan đi, lại nhuốm các khí độc ở đất bốc lên, thu tất cả bao nhiêu những nguồn ám chướng vào lòng rừng rú. Gia dĩ trong rừng, bóng mặt trời không lọt vào được, lá cây cổ thụ rờm rà che lấp hẳn ánh nắng, hóa nên sự ám chướng thiêng niên vạn đại cũng cha tiêụ Lá cây, khi rụng xuống, xếp lên thành khối, lâu ngày mục dần, biến ra một tảng đất đen hôi thối, có khi rơi vào nước, hoặc ngấm vào mạch nước, đầu độc cả các suối, các ngòị Dân cư bởi thế, không tài nào tránh khỏi bệnh tật, vì ai ai cũng đều phải lấy nước làm một sự cần thiết cho cuộc sinh hoạt thường ngày.
Đấy, chỉ xem qua như thế ta cũng đủ thấy đất Đồng Giao là một vùng ám chướng; mà không những hạt ấy chỉ độc địa ở khí hậu, chỉ buồn tẻ cằn cỏi ở phong cảnh, nó lại còn dữ dội tàn ác ờ chỗ rùng núi bụi bờ chứa đầy các loài mãnh thú sinh hoạt một cách hùng cường phồn thịnh trong vẻ phồn thịnh cua cỏ cây.
Bởi địa thế hiểm hóc, Đồng Giao đã làm trường thí nghiệm cho muôn ngàn tấn bi kịch khủmg khiếp. Nào là cướp bóc, chém giết, nào là hãm hiếp, giam kìm vân vân ... Những trò thương tâm ấy đều là của loài người tranh cạnh với loài người, mà diễn ra, nó không có tính cách lạ lùng cho lắm. Thê thảm bi đát hơn ấy là sự mãnh thú, vì đói ăn bắt loài người cấu xé ra từng mảnh, xác thì dùng để lót dạ, mà hồn thì đày đọa vào kiếp nô lệ ma trành. Một câu chuyện trong muôn ngàn chuyện hổ hại người, tình cờ khi đặt chân lần đầu trên đất hạt Đồng Giao này tôi đã được nghe thuật lại.
Bạn hãy theo tôi xuống tàu vào ga một chút, rồi chúng ta sẽ cùng đi tới đầu đề. Hôm đó, trời mưa rả rích, lại tối đen như mực, dẫu vừa mới tám giờ đêm. Quang cảnh nhà ga trông quạnh hiu hoang vắng, sự buồn sự lạnh thấu trời rơi vào tận đáy tâm hồn. Tàu huýt còi rồi nặng nề lăn bánh trên con đường sắt, chui vào bóng tối chập chùng. Tôi ngẩng trông trời, mưa phăn tạt vào mặt tỉnh táo ra đôi chút. Một mình thui thủi, tôi xách va ly thất thểu trên vỉa đường ẩm thấp, đi vào cửa ga.
Cửa ga hé mở có một cánh. Một người thư ký, gầy gò trong chiếc áo the lụng thụng, giơ tay đón lấy cái vé tôi traọ Tôi cũng chả buồn nhìn xem ông ta già hay trẻ và mặt mui thế nàọ Vả lại tối lắm.
Bước vào mé trong ga tôi thấy ấm áp dễ chịụ Anh sáng các ngọn đèn dầu tây tỏa ra một cách dịu dàng trong gian phòng hẹp vắng bẩn thỉu, trên tường có tranh ảnh của sở hỏa xa xuất bản, ở một góc lại có một cái cân to.
Tôi còn đương bàng hoàng ngần ngại , ở bóng tối bỗng đâu nhô ra một người vạm vỡ, mũ dạ đội sụp lấy trán, áo tơi mưa bọc kín cả ngườị Chàng lực sĩ ấy ra nắm lấy tôi, rồi nhe ngay bộ răng trắng nhỡn.
- Tôi đợi anh đã lâụ Sao tàu chậm thế?
Tôi mới nhận ra đó là Trần Văn Thủy, bạn tôi, một nhà thầu khoán to hiện đương dở công việc xây đắp nhà cửa và đường sá ở mạn Đồng Giaọ Anh Thủy thấy tôi mừng quýnh như kẻ được vàng, vội kéo tói xềnh xệch ra khỏi ga, đẩy tôi lên xe ô tô, mở máy chạy vèo vèo trên con đường đá vụn. Tôi ngồi trên xe, chỉ nhìn thấy một vùng vô định, lờ mờ u ám, không còn nhận rõ sự gì. Duy chốc chốc lại nghe tiếng sỏi bắn vào thành xe, kêu rắc rắc, và luôn luôn bên tai tiếng động cơ xoay chuyển đều đềụ Một nửa giờ như thế, xe ngừng laị Bạn tôi bấm đèn "pile" rọi sáng, đưa tôi vào một tòa nhà.