“Phim này cũng là do đạo diễn Hàm cá mập sản xuất?” Jesse hỏi. “Anh chẳng tin.”
Tối thứ Bảy. Tối của những buổi hẹn hò.
Ừ thì, đúng ra mà nói Jesse và tôi không thể đi chơi với nhau (làm sao đi chơi được chứ?), nhưng phần lớn các buổi tối thứ Bảy Jesse đều ghé qua. Đúng là không được lãng mạn như việc đi xem phim và ăn tối. Đúng là chúng tôi phải thật khẽ, để nhà tôi khỏi nghi ngờ trong phòng không chỉ có mình tôi.
Nhưng ít nhất thì chúng tôi cũng được ở bên nhau.
Đúng là trong buổi tối thứ Bảy ngày hôm nay thì tôi đang có rất nhiều điều phải suy nghĩ, trong số đó chẳng có điều gì tôi muốn kể cho Jesse cả. Nhưng như thế không có nghĩa chúng tôi không thành vài tiếng đồng hồ xem băng. Jesse còn phải học hỏi nhiều điều về phim ảnh lắm, vì hồi anh ấy còn sống điện ảnh còn chưa ra đời nữa là.
Bộ phim ưa thích của anh ấy cho đến thời điểm này là Bố Già. Tôi cố gắng sửa chữa điểm tệ hại đó bằng cách cho anh ấy xem E.T. Làm gì có ai lại đi thích Don Corleone hơn cô Drew Barrymore sáu tuổi cơ chứ? Nhưng Drew hầu như chẳng khiến Jesse chú ý.
“Hàm cá mập hay hơn phim này nhiều,” Jesse nói.
Hàm cá mập là một trong những phim Jesse thích. Anh ấy thậm chí còn chẳng thích những phần hay ho. Anh chàng thích cái đoạn tất cả bọn đàn ông khoe những vết sẹo cho nhau xem cơ. Đừng hỏi tôi tại sao. Chắc bọn con trai toàn thế.
Cuối cùng, tôi tắt E.T. đi và bảo: “Nói chuyện nào.” Điều đó tất nhiên có nghĩa là: “Ta hôn nào.”
Việc đó diễn ra rất tuyệt, cho đến khi Jesse tạm ngừng hôn tôi và nói: “Suýt nữa anh quên. Thằng Paul định làm gì ở Hội Truyền Giáo tối nay thế? Nó tự nhiên lại tin vào tôn giáo chắc?”
Điều này quá bất ngờ nên tôi rời tay khỏi cổ anh ấy và nói: “Gì cơ?”
“Anh bạn Paul của em đó,” Jesse nói. Có thể tôi buông anh ấy ra, nhưng anh ấy thì vẫn ôm tôi. Dù điều đó thật tuyệt nhưng cũng hơi khiến tôi lơ đãng. Nhất là khi môi anh ấy vẫn đang lướt trên môi tôi. “Mới lúc trước anh thấy hắn trong nhà thờ... nhà thờ đóng kín cửa mà, em biết đấy. Sao hắn lại đến đây vào tối muộn nhỉ? Tên này đâu phải loại tính chuyện đi làm mục sư. Trừ phi hắn bất ngờ nhận ra nghề nghiệp thực sự của mình....”
Tôi giật mạnh ra khỏi vòng tay anh ấy. Là bạn thì bạn cũng sẽ thế thôi, nếu như đột ngột bạn bị một nỗi hoảng sợ cực độ bóp nghẹt.
“Susannah?” Jesse nhìn tôi chăm chăm, đôi mắt nâu sẫm mới vài giây trước thôi còn vô tư lự thì giờ chất chứa lo lắng. “Em có sao không?”
“Ôi, lạy Chúa.” Tại sao tôi có thể ngu ngốc đến thế được cơ chứ? Tại sao, tại sao, tại sao? Tôi ngồi đây với người bạn trai, xem phim – xem phim cơ đấy – không mảy may nghi ngờ gì hết. Tôi cứ nghĩ nếu Paul muốn quay về thời Jesse còn sống thì hắn phải đến đây. Cứ nghĩ nếu không thế thì hắn không thể đi được. Cứ nghĩ hắn còn lâu mới tính chuyện về quá khứ vào đêm nay trong khi ông nội hắn đang nằm viện. Cứ nghĩ giờ hắn với Kelly đã là một cặp rồi thì hắn còn quan tâm gì nữa không quan tâm đến ông hắn. Hắn chưa bao giờ và cũng không bao giờ quan tâm đến bất kỳ ai trong gia đình hết. Và tất nhiên hắn cũng không quan tâm đến Kelly. Sao hắn phải thế chứ? Kelly đâu có hiểu hắn, Kelly đâu có biết hắn thực sự là thể loại gì....
Và đương nhiên, vẫn còn một địa điểm khác có từ thời Jesse sống đến tận ngày nay. Một nơi Felix Diego có lẽ thường xuyên đến khi gã còn sống.
Hội Truyền Giáo. Hội Truyền Giáo Junipero Serra, được xây dựng từ những năm 1700.
“Em phải đi,” tôi nói, loạng choạng đứng dậy, với lấy chiếc áo khoác. Dạ dày tôi như muốn ói. “Em xin lỗi, Jesse, nhưng em phải đi – ”
“Susannah.” Jesse cũng đã đứng dậy, siết lấy bắp tay tôi mạnh mẽ nhưng đồng thời cũng lại dịu dàng. Jesse không bao giờ cố tình làm đau tôi hết. “Sao thế? Chuyện này là thế nào? Sao em lại quan tâm việc Paul đang ở trong nhà thờ?”
“Anh không hiểu đâu,” tôi nói. Thực sự có khi tôi sắp ói rồi. Thật đấy. Chắc chắn điều đó đã hiển hiện trên mặt tôi, bởi lẽ cái nắm tay của Jesse đột ngột trở nên chặt hơn rất nhiều...
... đồng thời nét mặt anh ấy trở nên cứng rắn hơn nhiều.
“Em cứ thử xem, querida,” anh ấy nói bằng giọng rắn y như cái siết tay vậy.
Thế rồi – đừng hỏi làm sao lại thế hay tôi đang nghĩ gì, bởi vì nói thật, có lẽ tôi không nghĩ được gì đâu – tất cả mọi chuyện tuôn ra hết.
Lúc trước tôi không muốn kể cho anh ấy. Không phải vì tôi không muốn anh ấy buồn lo. Giời ạ, không có đâu. Tôi không muốn anh ấy phát hiện ra là vì một lý do ích kỷ nhất trong mọi lý do: tôi không muốn nói với anh ấy vì tôi sợ anh ấy sẽ đồng ý với Cha Dominic và bố tôi – rằng anh ấy muốn có được cơ hội sống lần thứ hai còn hơn vĩnh viễn phải làm một bóng ma.
Nhưng tất cả mọi chuyện ào ào lộ ra, tất cả, từ những gì Tiến sỹ Slaski đã nói với tôi cho tới điều Cha Dominic nói chỉ mới vài tiếng đồng hồ trước. Mọi chuyện tuôn trào như cơn lũ không cách gì ngăn được, một tràng dài thốt ra từ miệng tôi. Tôi muốn rút lại tất cả thật nhanh giống như khi chúng tuôn ra vậy. Nhưng muộn rồi. Quá muộn mất rồi.
Jesse lắng nghe không hề tỏ vẻ nao núng, không ngắt lời tôi, kể cả khi tôi nói với anh ấy chuyện dàn xếp với Paul: thoả thuận bí mật giữa chúng tôi trong đó tôi sẽ phải chịu đựng những ‘bài học làm cầu nối’ với hắn vào chiều thứ T, đổi lại hắn không xua người bạn trai tôi sang thế giới bên kia.
“Chỉ có điều giờ hắn lại không muốn giết anh, Jesse ạ,” tôi cay đắng nói. “Hắn muốn cứu anh, cứu sống anh. Hắn sẽ quay lại quá khứ để ngăn Felix Diego giết anh. Và nếu hắn làm thế... nếu thế...”
“Anh và em sẽ không bao giờ gặp nhau.” Nét mặt Jesse vẫn bình thản, giọng nói vẫn trầm trầm như mọi khi.
Chưa từng có một lời nói nào khiến tôi cảm thấy đáng sợ đến thế. Nó giống như một vết dao đâm sâu vào trái tim vậy. “Đúng thế,” tôi hốt hoảng nói. “Anh không hiểu sao, bây giờ em phải đến đó. Đi ngay, và ngăn hắn lại.”
“Không, querida,” Jesse nói, vẫn bằng giọng ung dung như thế. “Em không được làm vậy.”
Trong một giây phút, nỗi kinh sợ đang thắt lấy trái tim tôi dường như bóp nghẹt cho tới khi tim tôi ngừng đập. Tôi nghĩ mình chết mất, chết ngay lập tức ở đó.
Jesse muốn được sống. Bố tôi, Cha Dominic, Tiến sỹ Slaski, Paul... tất cả bọn họ đều nói đúng. Tất cả đều đúng, và tôi mới là kẻ sai lầm, chính tôi đây. Jesse chọn được sống còn hơn được gặp tôi, quen tôi...
... và yêu tôi....
Dĩ nhiên, lẽ ra tôi phải đoán được rồi chứ. Và tôi nghĩ, từ tận đáy lòng, tôi cũng biết điều đó. Có ai – nhất là một người chết trẻ như Jesse, chết khi mới hai mươi – lại không muốn một cơ hội quay lại sống tiếp nếu có thể? Có ai không sẵn lòng từ bỏ tất cả những gì mình có để nắm lấy cơ hội ấy?
Mà Jesse thì có được thứ gì nào? Chẳng gì cả. Không gì hết. Chỉ có mình tôi thôi.
Từ lâu rồi, bố tôi trách tôi, bảo tôi chính là điều đang níu chân Jesse lại, không cho anh ấy đi tiếp. Cả Cha Dominic cũng đã nói thế... rằng nếu tôi thực sự yêu anh ấy, tôi phải để anh ấy đi.
Giờ thì tôi biết rồi. Jesse thà được tự do còn hơn ở bên tôi.
Chúa ơi. Suốt thời gian qua tôi đúng là một con ngốc. Một kẻ ngu ngốc nhất trên đời.
Sau đó Jesse buông cánh tay tôi ra.
Nhưng thay vì nói ra cái điều tôi đang chờ đợi – Em không được đuổi theo hắn, vì anh muốn nắm lấy cơ hội ấy. Anh muốn một cơ hội được sống một lần nữa nếu có thể – thìói bằng một giọng đột ngột trở nên lạnh lẽo như cơn gió ngoài trời kia: “Em không được đuổi theo. Hắn quá nguy hiểm. Anh sẽ đi. Anh sẽ ngăn hắn lại.”
Tôi không chắc mình có nghe chính xác không. Có phải – có thể nào – anh ấy đã nói cái điều tôi đang nghĩ là anh ấy nói đó không? “Jesse,” tôi nói. “Có lẽ anh không hiểu. Hắn muốn cứu anh. Cứu anh khỏi phải... khỏi phải chết vào đêm hôm đó.”
“Anh hiểu chứ,” Jesse nói. “Anh hiểu rằng Paul là một thằng ngốc cứ tưởng mình là Chúa. Anh không biết điều gì khiến hắn nghĩ hắn có quyền đùa bỡn với số phận của anh. Nhưng anh biết chắc, hắn sẽ không đạt được mục đích đó. Nếu như anh có thể ngăn được hắn.”
Máu trong người tôi như bắt đầu lưu thông trở lại. Đột ngột tôi lại thở được rồi. Cảm giác nhẹ nhõm tràn dâng. Anh ấy muốn ở lại. Jesse muốn ở lại đây. Anh ấy chọn ở lại hơn là sống. Anh ấy chọn ở lại – ở bên tôi – hơn là được sống.
“Anh không thể,” tôi nói, giọng bất ngờ trở nên cao vút chói tai, ngay cả tôi cũng thấy khó nghe. Đó là do cảm giác nhẹ lòng khiến tôi choáng váng. “Anh không thể ngăn được hắn, Jesse ạ. Paul sẽ – ”
“Vậy chứ em định làm thế nào hả Susannah?” anh ấy gay gắt hỏi. Và nếu như trước đó tôi còn chưa tin anh ấy liệu có thực sự mong muốn được ở lại nơi đây, ở lại thế giới này, thì bây giờ giọng nói bực bội của anh ấy cũng đủ để thuyết phục tôi rồi. “Khuyên hắn từ bỏ ý định chắc? Không được. Việc đó quá nguy hiểm.”
Nhưng tình yêu đã tiếp cho tôi lòng can đảm mà trước đây tôi chưa từng biết mình có nó. Tôi khoác lên mình chiếc áo da của dân đua môtô và nói: “Paul sẽ không làm em bị thương đâu, Jesse. Hắn làm điều này chính là vì em mà, anh nhớ không?”
“Ý anh không phải là về Paul,” Jesse nói. “Anh muốn nói tới việc du hành xuyên thời gian. Ông Slaski nói việc đó nguy hiểm phải không?”
“Vâng, nhưng mà – ”
“Thế thì em không được làm.”
“Jesse, em không sợ – ”
“Không,” Jesse nói. Trong mắt anh ấy có một vẻ gì đó tôi chưa từng thấy bao giờ. “Anh sẽ đi. Em ở lại đây. Để tất cả anh lo.”
“Jesse, đừng – ”
Nhưng một giây sau, tôi thấy mình đang nói với không í. Bởi Jesse đi mất rồi.
Tất nhiên tôi biết anh ấy đi đâu. Anh ấy tới nhà thờ để nói chuyện với Paul. Tôi dám cá cuộc nói chuyện ấy thế nào cũng có nắm đấm đi kèm.
Tôi cũng chắc chắn là Jesse sẽ đến muộn thôi. Lúc Jesse đến nơi tìm hắn thì Paul không còn ở Hội Truyền Giáo nữa rồi. Hay nói đúng hơn là, hắn ở đó. Nhưng không phải trong cái nhà thờ của thời hiện tại.
Thực sự, lúc ấy tôi chỉ còn có thể làm được một việc duy nhất mà thôi. Không phải là để tất cả mọi chuyện cho anh ấy lo như Jesse đã nói. Sao tôi làm vậy được, khi rất có thể sáng mai tôi tỉnh dậy mà không còn lại chút ký ức nào về Jesse nữa?
Tôi biết mình phải làm gì rồi. Và lần này, tôi sẽ không phạm phải sai lầm là đi xin ý kiến người khác trước khi hành động nữa.
Tôi băng qua căn phòng, nhấc gối lên, lôi ra bức tiểu họa vẽ chân dung Jesse – bức tranh anh ấy đã tặng cho người từng là vị hôn thê, Maria. Bức tranh tôi đã đặt dưới gối mà ngủ kể từ cái ngày tôi lấy trộm – à nhầm, được tặng.
Cúi nhìn đôi mắt sẫm màu ánh lên vẻ tự tin của Jesse, tôi nhắm mắt lại, hình dung ra anh ấy... hình dung ra Jesse ở ngay trong chính căn phòng này, chỉ có điều trông nó không như bây giờ, với cái giường bốn cột chống đầy ren rua và cái điện thoại tiểu thư công chúa (cảm ơn mẹ cả đống nhé).
Không, thay vào đó, tôi tưởng tượng ra căn phòng trông ra sao vào 150 năm trước. Không có những tấm rèm trắng xếp nếp ở ô cửa sổ nhô ra vịnh. Không có chỗ ngồi bên cửa sổ với mấy cái gối bông xốp. Không thảm trải trên sàn nhà gỗ. Không phòng tắm – ặc! – nhưng có thể có một cái... hồi đó gọi là gì ấy nhỉ? Ô phải rồi, cái bô.
Không ô tô. Không điện thoại di động. Không máy vi tính. Không lò vi sóng. Không tủ lạnh. Không tivi. Không dàn âm thanh stereo. Không máy bay. Không thuốc penicillin.
Chỉ có duy nhất cỏ. Cỏ cây, bầu trời, những chiếc xe kéo bằng gỗ, ngựa, bụi đất, và...
Và tôi mở mắt ra.
Tôi đã đến nơi.