Vẫn là phòng tôi, nhưng lại không phải
Nơi lúc trước đặt cái giường ren rua thì giờ là giường có khung bằng đồng. Trên giường là tấm chăn phủ màu sắc rực rỡ, kiểu chăn mẹ tôi sẽ thích điên lên được nếu chẳng may trông thấy trong cửa hàng bán đồ thủ công nào đó. Chỗ kê cái bàn hoa hoè hoa sói với tấm gương to đùng sáng choang thì giờ lại là một chiếc tủ ngăn kéo, trên đó có bình đựng nước và một cái bát.
Cả phòng không có lấy một cái gương, nhưng sàn nhà được trải bằng một loại thảm dệt theo... đủ kiểu khác nhau. Chẳng dễ gì nhìn rõ được mọi thứ xung quanh, bởi lẽ thứ ánh sáng duy nhất ở đây là ánh trăng yếu ớt rọi qua mấy ô cửa sổ nhô ra ngoài. Không có công tắc đèn. Theo bản năng, tôi rờ rẫm tìm công tắc ngay khi mở mắt ra và thấy chỉ có bóng tối bao phủ. Chỗ trước kia có công tắc thì giờ chỉ có gỗ không.
Điều đó chỉ có thể mang một ý nghĩa duy nhất.
Tôi đến được đúng nơi rồi.
Ái chà.
Nhưng Jesse đâu? Căn phòng không có ai cả. Trông giường chiếu không có vẻ gì là mới có người ngủ trên đó. Tôi đến quá muộn chăng? Jesse đã chết rồi? Hay là tôi đến quá sớm và Jesse còn chưa xuất hiện?
Chỉ có một cách duy nhất để biết được. Tôi đặt tay lên tay nắm cửa – nhưng tất nhiên là giờ thì làm gì có tay nắm, chỉ có then cài thôi – và bước ra hành lang bên ngoài. Trên hành lang, bóng tối gần như dày đặc. Ngoài này cũng không có công tắc điện luôn. Thay vì vậy, khi sờ sẫm tìm, tay tôi chạm phải một bức tranh đóng khung hay là thứ gì đó...
... thứ đó lập tức rơi xuống đất với một tiếng động to, dù không có kính vỡ. Tôi chẳng biết phải làm gì bây giờ. Không thể tìm được cái thứ tôi vừa mới làm rơi, trong này tối mù. Vậy là tôi đi tiếp xuống cầu thang, cố nhớ xem những chỗ rẽ nằm ở vị trí nào, vì làm gì có ánh sáng soi đường.
Tôi trông thấy một luồng sáng yếu ớt trước khi nghe thấy tiếng bước chân vội vã tiến lại chỗ cuối cầu thang. Có ai đó đang đi lên... ai đó đang cầm một cây nến. Jesse à? Có thể nào là anh ấy?
Nhưng khi xuống đến cuối cầu thang, tôi trông thấy một người đàn bà đang tiến lại phía mình, người đàn bà không cầm theo nến mà là một loại đèn lồng. Lúc đầu tôi nghĩ bà ta chắc chắn phải béo ú ụ, và tôi thế này chứ: Trời đất, chả hiểu bà ta ăn cái thứ gì không biết? Người ta đã làm gì bán bánh Twinkles vào thời Jesse sống... à quên, là ‘thời bây giờ’
Nhưng sau đó tôi thấy bà ta đang mặc một loại váy phồng, cái mà tôi tưởng là thân hình đồ sộ thì hoá ra lại là váy áo mà thôi.
“Trời đất quỷ thần ơi,” người đàn bà kêu lên khi bà ta trông thấy tôi. “Cô ở đâu chui ra vậy hả?”
Tôi nghĩ tốt hơn là nên cho qua câu hỏi đó. Thay vì vậy, tôi hỏi một cách lịch sự nhất có thể: “Jesse de Silva có ở đây không ạ?”
“Cái gì?” Người đàn bà giơ đèn lên cao hơn, nhìn tôi chằm chằm. “Giàng ơi,” bà ta kêu. “Nhưng cô là con gái cơ mà!”
“Um,” tôi nói. Tôi thấy điều đó quá hiển nhiên rồi còn gì. Dù sao thì tóc tôi cũng khá dài, mà tôi thì luôn để xoã. Với lại, lúc nào tôi chả chải mascara. “Vâng thưa bà. Jesse có đây không ạ? Vì cháu rất cần nói chuyện với anh ta.”
Nhưng thay vì khen ngợi thái độ lịch sự của tôi, người đàn bà đó mím chặt môi lại. Điều tiếp theo tôi biết là, bà ta với tay mở cửa, cố đuổi tôi ra ngoài. “Ra,” bà ta nói. “Cô ra ngay. Phải biết là chúng tôi không cho những loại như cô vào trong này. Nhà này là nhà đàng hoàng tử tế.”
Tôi chỉ biết đứng đó há miệng nhìn bà ta. Nhà đàng hoàng tử tế? Tất nhiên là thế rồi. Nhà TÔI mà lị.
“Cháu không có ý gây chuyện, thưa bà,” tôi nói, vì cũng biết rằng bạn sẽ thấy có phần hơi kỳ quái khi bắt gặp một đứa con gái lạ hoắc đi lang thang trong nhà mình... dù là nhà trọ đi nữa. Ngôi nhà đó là nhà của tôi. Hay ít ra là nhà của mẹ tôi và ông chồng mới cưới. “Nhưng thực sự cháu rất cần nói chuyện với Jesse de Silva. Không biết anh ta – ”
“Cô nghĩ tôi là loại ngu ngốc cỡ nào chứ?” người đàn bà lên giọng hỏi không được tử tế lắm. “Cậu de Silva còn lâu mới thèm tiếp cái... hạng như cô. Cần nói chuyện với Jesse de Silva cơ đấy! Đi ra! Cút ra khỏi nhà tôi!”
Và rồi, với một sức mạnh thật đáng nể đối với một người đàn bà mặc váy phồng, bà ta tóm lấy cổ áo khoác da đua môtô của tôi, lôi tôi ra khỏi cửa. “Phải thế mới sạch hết loại rác rưởi bẩn thỉu,” người đàn bà đó nói, đóng sầm cửa trước mặt tôi.
Không phải chỉ là cái cửa bất kỳ nào đó đâu nhá. Cửa nhà tôi đấy. Cửa ra vào của chính tôi đây, cửa nhà tôi. Không thể tin được. Theo như những gì Jesse kể và những gì tôi đọc được trong truyện Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên, hồi năm 1800 thì người ta chỉ biết làm bơ sữa thủ công và ngồi quanh đống lửa đọc sách chứ. Chả thấy ai nói năng gì về chuyện những bà xấu tính đuổi thẳng cổ con gái người ta ra khỏi chính ngôi nhà họ ở bao giờ.
Tôi bực bội quay người bỏ đi, bắt đầu bước xuống bậc thang trước nhà...
... và tí nữa thì ngã dập mặt. Vì bây giờ không còn bậc thang như lúc trước. Hay đúng hơn là, như về sau này. Ngoài ánh trăng ra thì chẳng còn đèn đóm gì để nhìn cả, mà trăng thì đúng lúc đó cũng bị một đám mây bay qua chắn mất. Tôi nói thật, ở đây tối đen như mực. Chẳng có đèn đường mờ tỏ gì – tôi thậm chí còn chả biết là Đường Pine Crest tôi ở lúc trước thì thời này đã có chưa nữa.
Và khi đưa mắt nhìn quanh, tôi chẳng thấy ánh sáng từ bất kỳ ô cửa sổ nào gần đó... vì theo như tôi thấy thì quanh đó làm gì có cửa sổ nào nữa. Ngôi nhà nơi tôi đang đứng trước cửa đây có lẽ là cái nhà duy nhất trong phạm vi hàng dặm...
Và tôi thì vừa mới bị tống cổ ra khỏi đó. Tôi đang mắc kẹt vào năm 1850 mà chẳng có nơi nào để đi, cũng chẳng biết đi đến đó bằng cách nào. Chắc là chỉ còn mỗi cách truyền thống thôi. Có lẽ tôi nên cuốc bộ đến Hội Truyền Giáo. Đó là nơi tên Paul đã đi mà. Tôi nhóng cổ lên tìm kiếm cái mái vòm đỏ quen thuộc của nhà nguyện nằm trên đồi Carmel, nhìn thấy được từ hiên trước.
Nhưng thay vì trông thấy Thung lũng Carmel trải dài trước mặt với ánh đèn lấp loáng ra đến tận đại dương tối đen, thì tôi lại chỉ thấy mỗi bóng đêm. Không đèn. Không mái vòm đỏ thắp sáng cho khách du lịch thăm quan. Chẳng có gì hết.
Tôi nhận ra, đó là vì làm gì có đèn. Người ta đã phát minh ra đèn điện đâu. Ít ra không phải loại bóng đèn tròn. Chúa ơi. Làm sao người ta xác định được đường đi ở đây cơ chứ? Họ dùng cái gì để soi đường, các vì sao đáng ghét chắc?
Tôi ngẩng lên xem có sao siếc gì không, băn khoăn tự hỏi liệu chúng có giúp được mình, và một lần nữa suýt ngã lăn. Bởi lẽ, trong đời tôi chưa bao giờ trông thấy nhiều sao trời đến như thế. Dải Ngân Hà trông tựa như một dải màu trắng trên trời, sáng đến mức gần khiến cho chị Hằng (cuối cùng cũng nhô ra khỏi đám mây) phải thẹn thùng xấu hổ.
Chà. Chẳng trách Jesse không mảy may thấy ấn tượng gì mỗi khi tôi chỉ đúng được chòm sao Gấu Lớn.
Tôi thở dài. Chắc chẳng thể làm được gì khác ngoài việc dò dẫm theo hướng chung chung nào đó dẫn đến Hội Truyền Giáo, hi vọng trên đường đi gặp được tên Paul – hay là Jesse... Jesse ngày xưa ấy mà. vừa mới tìm được lối đi xuống – một loạt những bậc thang gỗ ọp ẹp, chẳng giống như bậc thang xi măng như bây giờ... ý tôi là, hiện tại... thời hiện tại tôi sống ấy – thì thứ đó rơi trúng tôi. Những giọt mưa lạnh lẽo nặng hạt đầu tiên.
Mưa. Tôi không đùa nhé. Tôi vừa ngẩng lên để xem đó là mưa thật hay là có kẻ nào đó trên tầng hai cầm bô đổ xuống đầu mình (eo ôi), thì tôi trông thấy một khối mây đen xì từ biển bay vào. Những vì sao khiến tôi lãng đi nên lúc trước không để ý đến mây.
Hay lắm. Tôi phải cất công đi về quá khứ đến một thế kỷ rưỡi trước, thế mà tôi nhận được cái gì nào? Bị đuổi cổ ra khỏi chính nhà mình, lại còn dính mưa nữa chứ. Bao nhiêu là nước mưa. Trên trời, chớp nhá chói loà. Vài giây sau, sấm nổ ầm vang rõ lâu.
Tuyệt cú mèo há. Một cơn bão. Tôi mắc kẹt trong cơn bão năm 1850 mà chả có nơi nào để đi.
Thế rồi gió bắt đầu nổi lên, mang theo một mùi tôi không thể nhận ra ngay lập tức. Phải mất một phút tôi mới nhớ được. Sau đó, đột ngột tôi tỉnh người ra: đó là những dịp đến thăm Công viên Trung tâm hồi còn ở Brooklyn.
Ngựa. Quanh đây có ngựa. Thế nghĩa là phải có chuồng ngựa. Nơi đó có thể khô ráo. Và chắc cũng không bị những người đàn bà váy phồng trấn giữ, những kẻ coi tôi là loại rác rưởi đáng ghét.
Cúi đầu để tránh cơn mưa đang trút xuống ngày một to, tôi chạy về hướng có mùi ngựa, chẳng mấy chốc thấy mình ở đằng sau ngôi nhà, trước mặt là một cái chuồng ngựa cực lớn, đúng ở chỗ dượng Andy đã nói ngày sau dượng sẽ xây bể bơi, khi bọn chúng tôi tốt nghiệp đại học và khi dượng ấy tích góp đủ.
Cánh cửa chuồng ngựa đóng kín. Tôi vội vã chạy lại, thầm cầu mong cửa không khoá...
Đúng là không khoá thật. Tôi kéo một cánh ra, lẻn vào trong đúng lúc một tia sét rạch ngang bầu trời, sấm lại nổi lên ầm ầm to hơn trước.
Ít ra thì trong này cũng khô ráo. Tối mò mò, nhưng khô ráo. Mùi ngựa nồng nặc – tôi có thể nghe thấy tiếng chúng cử động không yên trong chuồng, giật mình khi nghe tiếng sấm – nhưng còn một mùi khác nữa còn mạnh hơn. Có lẽ là mùi cỏ khô. Vì không phải con gái quê nên tôi không dám chắc. Nhưng tôi nghĩ cái thứ lạo xạo khẽ lăn dưới gót giày mình là cỏ khô...
Chuyện này đúng là vui như tết. Tôi đến đây tìm cách cứu sống bạn trai mình – hay đúng hơn là, để ngăn kẻ khác khỏi làm điều đó – thế mà cho đến giờ phút này tất cảì tôi làm được là khiến bà chủ nhà nơi anh ấy trọ nổi cơn lôi đình. Ô, tôi lại còn bị mưa đổ xuống đầu nữa chứ. Rồi sau đó tìm thấy một cái chuồng ngựa.
Hoàn hảo không chê vào đâu được. Tiến sỹ Slaski chả hề nói chơi khi ông ta khuyên tôi đừng dính vào chuyện quay về quá khứ. Đến giờ, việc đó chắc chắn chả vui vẻ cái khỉ gì cả.
Và rồi, một giây sau, khi giơ tay lên vắt nước khỏi tóc thì tôi cảm thấy một bàn tay nặng nề đặt lên vai mình –
Tôi phải gánh chịu những gì thuộc về năm 1850 như thế là đủ lắm rồi đấy.
May phước cho tôi, một loạt sấm ầm ầm đã nhấn chìm tiếng hét của tôi. Nếu không thì bà chủ nhà – hay tệ hơn nữa là chồng bà ta, đấy là nếu bà ta có chồng – sẽ xông vào đây trong nháy mắt cho xem. Và chắc tôi rồi sẽ còn được nếm trải khối thứ khác còn hơn thế chứ chả phải chỉ có sợ thôi đâu.
“Im đi!” Paul thì thào. “Cậu muốn cho cả hai ăn đạn chắc?”
Tôi quay ngoắt lại. Tôi chỉ có thể mờ mờ nhìn thấy dáng người hắn đứng đằng kia, trong bóng tối. Nhưng thế cũng đủ để khiến cho mạch trong người tôi đang đập như chạy đua lúc trước giờ gần như ngừng luôn.
“Cậu làm gì ở đây thế hả?” tôi hỏi, hi vọng hắn không thấy sự bối rối trong giọng nói của mình. Trong tôi lúc này đang có bao nhiêu cảm xúc lẫn lộn khi trông thấy hắn: giận dữ vì hắn đã đến đây trước mình; sợ hãi vì hắn đã đến thật rồi; và nhẹ người khi thấy một gương mặt người quen.
“Thế cậu nghĩ tôi đang làm gì ở đây?” Paul ném một thứ gì đó thô ráp nặng nề về phía tôi.
Tôi bắt lấy, không được gọn ghẽ cho lắm. “Cái gì đây?”
“Chăn. Để cậu ủ cho khô người.”
Tôi thầm biết ơn, quàng tấm chăn lên vai. Dù vẫn còn đang mặc áo khoác da nhưng tôi đang run lập cập dưới lớp áo ấy. Tôi nghĩ đó không phải do cơn mưa. Cái chăn nồng nặc mùi ngựa. Nhưng không phải mùi quá tệ. Chắc thế.
“Vậy là,” Paul nói, tiến lại chỗ ánh sáng chiếu qua cánh cửa chuồng ngựa vẫn còn đang mở để tôi nhìn thấy mặt hắn. “Cậu đã làm được rồi đấy.”
Tôi sụt sịt một cách khốn khổ. Tôi cố không nghĩ ngợi đến chuyện mình đang lạnh run, ướt nhoẹt, ở trong một cái chuồng ngựa. Vào năm 1850“Tôi không tin được là cậu thực sự nghĩ mình có thể chuồn đi một cách dễ dàng,” tôi nói, lấy làm mừng là cuối cùng cũng kiềm chế được giọng nói run run. Còn hàm răng đánh lập cập là chuyện khác. “Cậu nghĩ tôi sẽ không ngáng cản chắc?”
Paul nhún vai. “Tôi nghĩ cũng đáng để thử. Vẫn còn cơ may tôi sẽ thành công mà, Suze. Anh ta còn chưa đến đây.”
“Ai?” tôi hỏi một cách ngớ ngẩn. Tôi còn đang mải nghĩ xem làm thế nào để cắt đuôi Paul, đi tìm Jesse mà không để hắn biết.
“Jesse chứ ai,” Paul nói như thể tôi là đứa đầu óc có vấn đề. Và bạn biết sao không? Có khi thế thật. “Chúng ta đi sớm một ngày. Mai anh ta mới đến.”
“Sao cậu biết?” tôi hỏi, lấy lưng cổ tay quẹt nước mũi đang chảy.
“Tôi đã nói chuyện với người đàn bà đó,” hắn đáp. “Bà O’Neil. Người chủ nhà cậu ấy.”
“Bà ta nói chuyện với cậu ư?” tôi không giấu nổi vẻ ngạc nhiên. “Bà ta không chịu nói chuyện với tôi. Bà ta ném tôi ra ngoài.”
“Cậu đã làm gì, hiện ra ngay trước mặt bà ta à?” Paul hỏi kèm một cái cười khinh khỉnh.
“Không,” tôi đáp. “Ừm, không phải ngay trước mặt.”
Paul lắc đầu. Nhưng tôi trông thấy hắn hơi nhe răng cười. “Cá là cậu khiến bà ta lên cơn đau tim. Bà ta nói sao về bộ đồ của cậu?” Hắn ra hiệu về phía bộ quần áo tôi mặc.
Tôi cúi xuống nhìn mình. Trong bộ quần jeans, áo da môtô, chắc tôi trông không giống với bất kỳ cô gái sống ở thế kỷ 19 nào tôi từng thấy trên phim. Hay đúng hơn, trên những bức tranh về thời này. “Bà ta bảo nhà bà ta là nhà đàng hoàng tử tế, tôi phải biết điều mà đừng có mò đến đây chứ,” tôi thú nhận và nóng gáy lên khi Paul phá ra cười.
“Gì?” tôi hỏi.
“Không có gì,” Paul đáp. Nhưng hắn vẫn còn cười.
“Nói đi.”
“Thôi được. Nhưng đừng có cáu. Bà ta tưởng cậu là loại gái bán hoa.”
Tôi trừng mắt nhìn hắn. “Không đúng!”
“Đúng thế. Mà tôi đã bảo đừng có cáu còn gì.
“Tôi có ăn vận giống gái gú gì đâu,” tôi nói thẳng. “Tôi mặc quần cơ mà.”
“Vấn đề ở chỗ đấy đấy,” Paul nói. “Ở thế kỷ này, chẳng người phụ nữ đàng hoàng tử tế nào lại đi mặc quần cả. May là Jesse chưa thấy cậu. Nếu không, chắc anh ta còn không thèm nói chuyện với cậu.”
Chịu đựng tên Paul thế là đủ lắm rồi. Tôi tức tối nói: “Anh ấy sẽ nói. Jesse đâu phải người như thế.”
“Anh Jesse cậu quen thì thế,” Paul nói. “Nhưng chúng ta đâu có nói đến anh chàng cậu quen, đúng không? Ta đang nói đến cái người chưa bao giờ gặp cậu. Người chưa phải lang thang suốt một trăm năm mươi năm, nhìn thời gian trôi đi. Chúng ta nói đến anh Jesse đang trên đường tới Carmel để cưới cô gái của đời – ”
“Im mồm đi,” tôi lên tiếng trước khi hắn kịp nói nốt câu đó.
Nụ cười nhăn nhở của tên Paul càng nở rộng hơn. “Xin lỗi. Chúng ta phải đợi vài tiếng. Thời gian ấy dành để cãi nhau thì thật vô nghĩa. Trèo lên trên gác xép với tôi, rồi chúng ta cùng ngồi chờ cho cơn bão qua đi.” Hắn lại biến vào trong bóng tối, và tôi nghe thấy tiếng chân trên một thanh xà gỗ. Một trong mấy con ngựa cất tiếng hí.
“Đừng sợ, Suze,” Paul gọi vọng xuống chỗ tôi từ trên cao chừng hơn một mét. “Chỉ là ngựa thôi. Chúng không cắn đâu. Nếu như cậu không đến quá gần.”
Đó không phải lý do tôi sợ. Nhưng nói thế không có nghĩa là tôi định thú nhận với hắn. “Chắc tôi ở dưới này thôi,” tôi nói trong bóng tối nơi giọng hắn vang vọng.
“Tốt thôi,” Paul nói, “nếu cậu muốn bị tóm. Như thế chỉ khiến công việc của tôi trở nên dễ dàng hơn. Mới lúc trước ông O’Neil đến xem chuồng ngựa thế nào đấy. Nhưng chắc chắn ông ta không bắn con gái đâu. Đấy là nếu ông ta còn kịp nhận ra cậu là con gái.”
Điều này lôi tôi đến chỗ cái thang. “Tôi ghét cậu,” tôi nói khi bắt đầu trèo lên.
“Không, cậu đâu có ghét,” Paul nói trong bóng tối phía trên đầu tôi. Nghe giọng thì biết, chắc là hắn lại đang nhe răng cười. “Nhưng cứ việc tự nhủ bản thân câu đó, nếu như nó khiến cậu cảm thấy dễ chịu hơn.”