Hắn đã làm việc đó. Cuối cùng hắn cũng hành động. Như thể từ tận sâu trong thâm tâm tôi có lẽ cũng đã luôn biết trước hắn sẽ làm mà.
Chắc bạn sẽ nghĩ rằng, sau khi trải qua tất cả những chuyện như thế thì tôi phải đoán trước được việc đó xảy ra chứ. Tôi đâu còn xa lạ gì với việc này. Mà cũng không phải không có những dấu hiệu cảnh báo trước. Vậy nhưng, khi ngón đòn bất ngờ đó xuất hiện, nó dường như là một tia chớp rạch ngang trên bầu trời xanh trong vậy.
“Thế cậu định đi ăn tối ở đâu trước khi đến dự Dạ tiệc Mùa đông?” Kelly Prescott hỏi tôi vào tiết thứ tư, trong phòng lab học ngoại ngữ. Cô ta thậm chí còn không thèm đợi xem tôi đáp thế nào. Vì Kelly không quan tâm câu trả lời của tôi là gì. Ngay từ đầu cô ta hỏi tôi không phải vì muốn nghe điều đó.
“Paul sẽ đưa mình đến quán Cliffside đấy,” Kelly nói tiếp. “Cậu biết quán Cliffside chứ, Suze? Ở khu Big Sur ấy mà?”
“Có chứ,” tôi đáp. “Tôi biết.”
Tuy nhiên, nói ra miệng thì là vậy thôi. Chẳng phải kỳ lạ lắm sao, khi não bộ của con người có thể đặt trong chế độ như chế độ lái tự động trên máy bay vậy? Như thể, làm sao có thể nói một đằng trong khi lại đang nghĩ một nẻo hoàn toàn khác? Bởi lẽ khi Kelly nói ra điều đó – về chuyện Paul đưa cô ta đến quán Cliffside ấy mà – thì điều đầu tiên tôi nghĩ đến lại chẳng phải là Có chứ, tôi biết. Còn lâu mới là như vậy. Ý nghĩ đầu tiên nảy ra giống kiểu thế này thì đúng hơn: Cái gì? Kelly Prescott ư? Paul Slater sẽ đưa KELLY PRESCOTT đến dự Dạ tiệc Mùa đông ấy à?
Nhưng đó không phải là điều tôi nói ra miệng, tạ ơn trời đất. Vì tên Paul đang ngồi cách đó chỉ vài cabin, chăm chú nghe băng. Điều cuối cùng trên đời này tôi muốn là để cho hắn nghĩ rằng... bạn biết đấy... tôi tức vì hắn đã mời kẻ khác đi dự tiệc. Việc hắn nhác thấy tôi đang nhìn về phía hắn là đủ tệ lắm rồi chứ đừng nói gì đến chuyện tôi đang nói về hắn. Hắn nhướn hết cả hai hàng lông mày lên đầy dò hỏi như thể muốn nói: “Tôi giúp được gì cho cậu không?
Lúc đó tôi mới thấy hắn vẫn còn đang đeo headphone. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi nhận ra là hắn không nghe thấy được những điều Kelly vừa nói. Hắn đang nghe đoạn đối thoại sắc sảo thú vị giữa Dominique và Michel, hai bạn người Pháp bé nhỏ.
“Nó là hạng năm sao đấy,” Kelly tiếp, ngồi vào cabin của cô ta. “Quán Cliffside ấy mà.”
“Hay nhỉ,” tôi nói, cuối cùng đành rời mắt khỏi ánh nhìn của tên Paul và kéo ghế trong cabin của mình ra. “Tôi chắc hai người sẽ vui lắm.”
“Ồ, đúng thế,” Kelly đáp. Cô ta hất mái tóc vàng mật ong ra sau để đeo headphone lên. “Sẽ lãng mạn cực kỳ. Thế cậu định đi đâu? Đi ăn trước khi dự tiệc ấy mà.”
Tất nhiên là cô ta đã biết rồi. Cô ta hoàn toàn biết rõ mà. Nhưng cô ta vẫn bắt tôi phải nói ra miệng. Bởi lẽ những đứa con gái như Kelly là thế đấy.
“Chắc là tôi không đi đâu,” tôi đáp, ngồi xuống cabin cạnh cô ta và đeo headphone của mình lên.
Kelly nhìn qua vách ngăn giữa chúng tôi, gương mặt xinh xắn của cô ta nhăn lại ra vẻ cảm thông. Sự cảm thông giả tạo, tất nhiên là thế rồi. Kelly Prescott chẳng quan tâm gì đến tôi hay bất kỳ ai khác ngoài chính bản thân cô ta.
“Không đi ư? Ôi, Suze, thế thì tệ quá! Không có ai mời cậu à?”
Tôi chỉ mỉm cười đáp lại. Mỉm cười và cố gắng gạt đi cảm giác cái nhìn của Paul đang dán chặt vào sau đầu mình.
“Tệ quá nhỉ,” Kelly nói. “Và có vẻ Brad cũng không đi được thì phải, vì Debbie đang bị sốt bạch huyết mà. A, mình có ý này.” Kelly cười khúc khích. “Cậu với Brad cùng nhau dự tiệc đi!”
“Đùa hay lắm,” tôi nói, mỉm cười yếu ớt trong khi Kelly rúc rích với trò đùa của mình. Bởi vì, bạn biết đấy, không có gì thảm hại bằng việc một đứa con gái được chính anh em con dượng mình hộ tống đến dự Dạ tiệc Mùa đông.
Có lẽ chỉ trừ mỗi một chuyện là chẳng có đứa nào mời nó đi cả.
Tôi bật băng lên. Dominique ngay lập tức bắt đầu kêu ca phàn nàn với Michel về dormitoire[1] của cô ta. Tôi tin chắc Michel lẩm bẩm những câu đáp tỏ vẻ thông cảm (lúc nào anh ta chả thế) tôi không nghe thấy những lời đáp ấy là gì.
Bởi lẽ nó thật vô lý. Chuyện vừa mới xảy ra ấy mà. Sao Paul có thể đưa Kelly đi dự Dạ tiệc Mùa đông trong khi tôi mới chính là người hắn đang nhăm nhe một buổi hẹn hò... bất kỳ buổi hẹn nào? Nói thế chả phải tôi thích thú gì về điều đó đâu nhá. Nhưng thỉnh thoảng đúng là tôi phải cho hắn có chút hi vọng để hắn khỏi ra tay với bạn trai tôi như đã làm với bà Gutierrez.
Khoan đã. Có phải chuyện là như thế không? Cuối cùng Paul cũng phát chán vì phải quanh quẩn với một đứa con gái mà hắn phải hăm doạ để đứa đó dành thời gian ở bên cạnh hắn? Ừm, tốt thôi. Đúng không nhỉ? Ý tôi muốn nói, nếu Kelly thích, cô ta có thể chiếm lấy hắn.
Rắc rối duy nhất là ở chỗ, tôi đang khó khăn lắm lắm để cố không nhớ lại cảm giác thân người Paul áp sát vào tôi đêm hôm nọ ở trong sân nhà Gutierrez. Bởi lẽ, cảm giác ấy thật tuyệt – sức nặng của hắn, hơi ấm của hắn – cho dù tôi có sợ hắn đi nữa. Rất tuyệt.
Cảm giác thì đúng... nhưng dành cho nhầm người.
Nhưng còn anh chàng phù hợp thì sao? Anh ấy không phải là kiểu người đè-con-gái-xuống-bãi-cỏ. Còn hơi ấm ư? Anh ấy đã chẳng còn toả ra được chút hơi ấm nào suốt một thế kỷ rưỡi nay rồi. Đó đâu phải lỗi của anh ấy, thật đấy. Chuyện hơi ấm gì đó ấy mà. Jesse chẳng làm gì được với thực tế là anh ấy đã chết, giống như Paul không thể là gì khác ngoài... chính bản thân hắn.
Thế nhưng, cái chuyện mời-Kelly-đi-dự-tiệc-chứ-không-mời-tôi, nó khiến tôi phát sợ. Tôi đã chuẩn bị tinh thần để nghe lời mời của hắn – và cả phản ứng của hắn khi tôi từ chối – hàng mấy tuần nay rồi. Thậm chí tôi còn bắt đầu nghĩ rằng cuối cùng mình cũng hiểu được tính chất qua lại trong mối quan hệ giữa tôi và hắn... như thể đó là trận đấu tennis ở khu nghỉ dưỡng nơi chúng tôi gặp nhau vào mùa hè vừa qua.
Chỉ trừ một điều rằng lúc này đây tôi đang có cảm giác chán chường rằng Paul vừa mới đánh quả bóng về phía phần sân của tôi mà tôi không bao giờ có thể đánh trả lại được.
Chuyện đó là thế nào vậy?
Những từ ngữ ấy hiện lên trước mắt tôi, được viết ngoáy trên tờ giấy xé ra từ một quyển vở và vẫy vẫy về phía tôi qua vách ngăn giữa cabin của tôi và cabin phía trước. Tôi lấy tờ giấy từ mấy ngón tay đang cầm và viết: Paul mời Kelly đi dự Dạ tiệc Mùa đông, sau đó lại đưa qua vách ngăn.
Mấy giây sau, tờ giấy lại bay đáp xuống trước mặt tôi. Mình tưởng hắn định mời cậu chứ!!! Cee Cee, bạn thân nhất của tôi, viết.
Chắc là không đâu, tôi ngoáy lại.
Ừm, có lẽ thế cũng tốt thôi, Cee Cee trả lời. Đằng nào thì cậu cũng không muốn đi với hắn mà. Ý mình muốn nói, Jesse sẽ thế nào đây?
Nhưng đúng là thế. Jesse sẽ thế nào đây? Nếu Paul mời tôi dự Dạ tiệc Mùa xuân mà tôi đáp lại lời mời của hắn bằng một câu kém phần hào hứng thì hắn sẽ tung ra một trong những câu doạ dẫm khó hiểu về chuyện của Jesse – thực ra, lời đe doạ mới đây nhất là chuyện rõ ràng hắn đã biết được một cách nào đó để ngăn không cho người đã chết khỏi phải chết ngay từ đầu... Mặc kệ điều đó có nghĩa là gì.
Thế mà hôm nay hắn quay ngoắt lại, mời ngay người khác đi dự tiệc. Không phải chỉ là một người nào đó không thôi, mà là Kelly Prescott, đứa con gái xinh nhất, nổi nhất trường... đồng thời cũng lại là đứa mà tôi tình cờ được biết là Paul ghét cay ghét đắng.
Tất cả những chuyện này có gì đó không ổn... và không phải chỉ là việc tôi đang cố dành tất cả những điệu nhảy để tặng cho một anh chàng đã chết được một trăm năm mươi năm có lẻ.
Nhưng tôi không nói ra điều đó cho Cee Cee biết. Dù có là bạn thân nhất hay không, thì cũng có quá nhiều chuyện mà một đứa con gái mười sáu tuổi không thể hiểu hết được – ngay cả đứa mười sáu tuổi bạch tạng có dì là một bà đồng. Đúng là cô ấy có biết về Jesse thật. Nhưng còn Paul? Tôi chưa từng hé răng tiết lộ điều gì hết. Và tôi muốn tiếp tục giữ kín như thế.
Sao cũng được, tôi viết. Thế còn cậu? Adam đã mời cậu chưa?
Tôi ngó quanh để chắc chắn xơ Marie-Rose, giáo viên tiếng Pháp, không nhìn thấy trước khi luồn tờ giấy về phía Cee Cee, thay vào đó tôi lại thấy ngay Cha Dominic đang vẫy vẫy mình ở ngưỡng cửa phòng lab.
Tôi bỏ headphone ra không chút nuối tiếc – những câu rên rỉ của Dominique và Michel nếu bằng tiếng Anh cũng đã chẳng có gì hay ho thú vị; còn bằng tiếng Pháp ấy à, thật sự là không thể nào chịu nổi – và vội vã đi ra cửa. Tôi cảm thấy (chứ không phải trông thấy) rằng có một cái nhìn chăm chú đang dán chặt vào mình. Tuy nhiên, tôi sẽ không liếc nhìn về phía hắn để cho hắn thoả mãn đâu đấy.
“Susannah,” Cha Dominic nói khi tôi rời cabin học ngoại ngữ, bước ra một trong những lối đi giống như là hành lang giữa các lớp học ở Trường Truyền Giáo Junipero Serra. “Thật may là gặp được con trước khi ta đi.”
“Đi ư?” Phải đến lúc đó tôi mới để ý thấy Cha D đang cầm một chiếc túi và đang đeo một vẻ mặt vô cùng lo âu. “Cha định đi đâu?”
“San Francisco.” Mặt Cha Dominic trắng bệch gần như màu mái tóc được chải gọn gàng của ông. “Ta e rằng vừa xảy ra một chuyện khủng khiếp.”
Tôi nhướn một bên lông mày. “Có động đất ạ?”
“Không hẳn thế.” Cha Dominic đẩy gọng kính lên trên sống mũi thẳng hoàn hảo khi ông nheo mắt cúi nhìn tôi. “Đó là monsignor. Vừa xảy ra một tai nạn và ông ấy đang hôn mê.”
Tôi cố gắng làm bộ âu lo cho hợp cảnh, cho dù nói thật là tôi chả bao giờ quan tâm lo lắng gì đến monsignor cho lắm. Ông ta chỉ toàn khó chịu vì những chuyện nhỏ nhặt vớ vẩn – ví dụ như chuyện bọn học sinh nữ mặc váy ngắn đi học chẳng hạn. Nhưng còn chuyện thực sự quan trọng thì ông ta chả bao giờ lo đến cả, như là việc món xúc xích trong bữa trưa lúc nào cũng nguội tanh nguội ngắt.
“Ái chà,” tôi nói. “Thế có chuyện gì vậy? Tai nạn ô tô ạ?”
Cha Dominic e hèm. “Ờ, không. Ông ấy... ừm... bị ngạt thở.”
“Có kẻ siết cổ ông ta ạ?” tôi hỏi mà lòng ngập tràn hi vọng.
“Dĩ nhiên là không. Susannah, con thật hết biết,” Cha Dom trách móc. “Ông ấy bị mắc nghẹn miếng xúc xích khi dự một bữa tiệc barbeque của xứ đạo tổ chức.”
Ối cha mẹ ơi! Đúng là gieo nhân nào gặt quả ấy! Tuy nhiên tôi không nói ra miệng, vì tôi biết thừa là Cha Dominic không bằng lòng. Thay vào đó tôi nói: “Tệ quá nhỉ. Thế Cha đi bao lâu?”
“Ta chưa biết,” Cha Dom đáp, trông có vẻ buồn bã. “Chuyện xảy ra thật chẳng đúng lúc tí nào, cuối tuần này lại có buổi đấu giá mới phiền.”
Trường Truyền Giáo liên tục nỗ lực tìm cách gây quỹ cho trường. Cuối tuần này sẽ diễn ra buổi đấu giá đồ cổ được tổ chức mỗi năm một lần. Suốt tuần, những đồ cổ hiến tặng đổ về ào ào và được cất giữ trong tầng hầm của khu nhà dành cho các linh mục. Một trong những món đồ quý giá nhất mà hội nhận được là tấm bảng Ouija[2] (phần hiến tặng của bà đồng Pru, dì của Cee Cee) và một chiếc đai lưng bằng bạc Carmel xác định nó khoảng hơn 150 năm tuổi – cái đai đó được thằng Brad con dượng tôi phát hiện ra trong lúc dọn dẹp tầng áp mái nhà chúng tôi, nhiệm vụ nó bị gán như là hình phạt vì một tội mà tôi cũng chẳng nhớ nổi là tội gì.
“Nhưng ta muốn đảm bảo chắc chắn rằng con biết ta đi đâu.” Cha Dominic lôi từ trong túi áo ra một chiếc di động. “Nếu có bất cứ chuyện gì... ờ... chuyện gì bất thường, thì con sẽ gọi cho ta chứ, Susannah? Số của ta là – ”
“Con nhớ số rồi mà, Cha D,” tôi nhắc. Điện thoại của Cha Dom còn mới, nhưng không mới lắm. Cho phép tôi thêm vào một câu này nhé, việc Cha Dominic (một người chả bao giờ muốn có di động mà cũng chả biết tí ti gì về việc dùng di động thế nào) lại có một cái trong khi tôi thì không, việc đó thật là chán như con gián. “Mà Cha bảo ‘chuyện bất thường’ là ý muốn nói những việc như kiểu thằng Brad vớt vát được điểm vừa đủ qua trong bài kiểm tra giữa kỳ môn Lượng giác, hay những hiện tượng mang tính siêu tự nhiên hơn thế, ví dụ như ma hiện hình trong nhà thờ?”
“Vế sau,” Cha Dom đáp, bỏ điện thoại vào túi. “Ta hi vọng chỉ vắng mặt khoảng một, hai ngày là cùng, Susannah ạ, nhưng ta hoàn toàn biết rõ rằng trước đây chẳng cần đến chừng ấy thời gian thì con cũng đã kịp đâm đầu vào nguy hiểm chết người rồi. Trong khi ta đi, con làm ơn cẩn thận một chút. Ta không muốn lúc về nhà chỉ thấy thêm một phần nữa của ngôi trường tan tành mây khói đâu đấy. À, mà nếu có thể thì con nhớ đừng để con Spike thiếu thức ăn – ”
“Ấy không,” tôi nói, giật lùi. Đã lâu lắm rồi mới lại có chuyện hai cổ tay và hai bàn tay tôi không còn những vết cào xước đỏ ửng, và tôi muốn giữ như thế. “Con mèo đó giờ là nghĩa vụ của Cha rồi, chứ không phải của con.”
“Chứ ta còn biết làm thế nào được nữa hả Susannah?” Cha D trông có vẻ bực bội. “Chẳng lẽ nhờ xơ Ernestine thỉnh thoảng để mắt đến nó chắc? Lẽ ra trong nhà mục sư còn không được nuôi chó mèo cơ, vì bà ấy bị dị ứng nặng với chúng. Ta phải học cách đi ngủ mà vẫn phải mở cửa sổ để con mèo khỉ gió đó có đường vào ra theo ý nó mà không bị bà nữ tu nào trông thấy – ”
“Thôi được rồi,” tôi ngắt lời ông, thở dài đánh thượt. “Sau khi tan học con sẽ ghé qua PETCO. Cha còn dặn gì nữa không nào?”
Cha Dominic lôi trong túi ra một tờ danh sách nhàu nát. “À,” ông nói sau khi xem xong một lượt. “Còn lễ tang nhà Gutierrez nữa. Tất cả đã lo đâu vào đấy cả rồi. Và ta đã cho gia đình đó vào mục trường hợp cần trợ cấp nhất, như con yêu cầu.”
“Cảm ơn Cha, Cha D,” tôi nói khẽ, quay ra trôngheo những chiếc cổng vòm ở lối đi, nhìn về phía chiếc đài phun nước ở giữa sân. Hồi còn ở Brooklyn, nơi tôi sinh ra và lớn lên, chẳng còn hoa nào trụ nổi vào tháng Mười Một. Còn ở California này – dù là bắc California – tháng Mười Một rõ ràng đồng nghĩa với khách du lịch ngày ngày đến tham quan Hội Truyền Giáo mặc quần kaki thay vì quần đùi cộc, và những tay lướt sóng ở bãi biển Carmel phải chuyển từ đồ lặn ngắn tay sang dài tay. Những đoá hoa rực rỡ sắc đỏ và hồng vẫn còn nở rộ trong những khoảng sân trồng ở Hội Truyền Giáo, và đến giờ ăn trưa mỗi ngày, bọn tôi vẫn còn có thể vã mồ hôi hột dưới ánh nắng mặt trời chói chang.
Vậy nhưng, dù thời tiết có khoảng 210 đi nữa, tôi vẫn run cầm cập... và không phải chỉ vì tôi đang đứng trong bóng râm mát rượi của lối đi. Không, đó là cái lạnh toát ra từ tận bên trong, cái lạnh ấy mới khiến hai tay tôi nổi da gà. Bởi lẽ, dù những khu vườn ở Hội Truyền Giáo đẹp thật đấy, nhưng điều đó cũng chẳng thể xua đi ý nghĩ rằng bên dưới những cánh hoa rực rỡ kia đang lẩn khuất một thứ gì đó đen tối và...
... ừm, giống như tên Paul vậy.
Thực sự là thế. Tên đó có thể khiến cho một ngày tươi đẹp nhất hoá thành âm u mây mù ảm đạm. Ít nhất thì tôi thấy vậy. Tôi không biết liệu Cha Dominic có nghĩ giống như mình không... nhưng tôi có phần không tin lắm vào điều đó. Sau màn khởi đầu có phần trúc trắc hồi đầu năm học, cuối cùng thì Paul cũng chẳng có gì nhiều nhặn để qua lại báo cáo với ông hiệu trưởng ngôi trường như tôi. Điều đó có vẻ hơi kỳ lạ, trong khi cả ba người chúng tôi đều làm cầu nối cho hồn ma cơ đấy.
Nhưng cả Cha D lẫn Paul dường như đều bằng lòng với mọi chuyện diễn ra như vậy, mỗi người đều muốn giữ khoảng cách, còn tôi thì là con thoi chạy qua chạy lại giữa hai người đó mỗi khi có chuyện thực sự cần thiết phải liên lạc. Chuyện đó có một phần nguyên nhân là vì (đối diện sự thật thôi) cả hai đều là đàn ông con trai. Nhưng cũng lại vì cách cư xử của Paul – ít ra là ở trường – đã tiến bộ đáng kể, và chẳng có lý do gì để phải triệu hắn đến gặp hiệu trưởng cả. Paul đã thành một học sinh mẫu mực, đạt được những điểm số ấn tượng và thậm chí còn được đề bạt chức đội trưởng đội tennis nam Trường Truyền Giáo nữa kia.
Nếu không mắt thấy tai nghe thì chắc tôi cũng chẳng tin nổi. Nhưng đúng là thế. Rõ ràng Paul muốn giấu Cha D về những gì hắn làm sau khi tan học, hắn biết vị linh mục chắc chắn sẽ không bằng lòng chút nào.
Ví dụ như chuyện nhà Gutierrez chẳng hạn. Một hồn ma đến tìm chúng tôi nhờ giúp đỡ, và thay vì làm điều phải thì Paul lại ăn cắp hai ngàn đôla của bà ấy. Nếu Cha Dominic mà biết chuyện đó thì ông sẽ không chịu bỏ qua cho hắn đâu.
Chỉ có điều, ông lại chẳng hay. Cha D ấy mà. Bởi lẽ Paul sẽ không kể với ông ấy, và nói thật nhé, tôi cũng vậy. Bởi vì nếu tôi làm thế – nếu tôi mà kể cho Cha Dominic bất cứ điều gì có thể khiến Paul không còn là một đứa thích thể thao đạt toàn điểm A như hắn đang đóng kịch – thì chuyện đã xảy ra với bà Gutierrez cũng sẽ xảy ra với bạn trai của tôi. Hay là... bạn biết đấy... anh chàng sẽ trở thành bạn trai của tôi. Nếu như anh ấy còn sống.
Thôi được, vậy là Paul nắm thóp được tôi. Nắm đúng điểm yếu của tôi. Ừm, có lẽ cũng không thực sự hẳn hòi là như thế, nhưng cũng gần gần... Vì vậy mà tôi đành phải làm một việc không hay ho cho lắm để giành lại chút công bằng cho gia đình Gutierrez, những người đã bị hắn ăn cướp dù họ chẳng hề hay biết. Dĩ nhiên là tôi không thể đi báo cảnh sát được (Ừm, chú thấy đấy thưa sỹ quan, hồn ma của bà Gutierrez đã nói cho cháu biết về số tiền cất giấu bên dưới một hòn đá trong sân sau nhà bà ấy, nhưng khi cháu đến nơi thì phát hiện ra một kẻ làm cầu nối khác đã cuỗm mất rồi... Chú hỏi người làm cầu nối nghĩa là gì ấy hả? À, đó là người liên lạc giữa người sống và người đã chết. Này, khoan đã, chú lấy cái áo dành cho người bị tâm thần ra làm gì thế?)
Thay vì vậy, tôi viết tên gia đình đó vào danh sách những trường hợp khó khăn nhất cần Hội Truyền Giáo tương trợ, tổ chức lễ tang đàng hoàng cho bà Gutierrez và một số tiền đủ để những người thân trả được phần nào món nợ của bà ấy. Tuy nhiên, không được đến hai ngàn đôla, điều đó thì tôi chắc chắn...
“ – trong khi ta đi vắng, Susannah.”
Tôi chuyển sự chú ý sang những gì Cha Dominic đang nói khi đã hơi muộn. Và tôi cũng không thể hỏi ông rằng: Chuyện gì cơ, Cha D? Vì như thế thì ông sẽ hỏi tôi đang nghĩ gì mà không để ý đến những điều ông nói.
“Con hứa chứ, Susannah?”
Đôi mắt xanh của Cha Dominic dán chặt vào tôi. Tôi còn biết làm gì nữa đây ngoài nuốt xuống một cái rồi gật đầu?
“Vâng, thưa Cha D,” tôi đáp, chẳng hề hay biết mình đang hứa cái gì.
“Ừm, phải nói rằng, điều đó khiến ta cảm thấy khá hơn rồi,” ông nói, và đúng là hai vai ông dường như cũng bớt đi sự căng thẳng trong lúc hai cha con nói chuyện. “Tất nhiên là ta biết mình có thể tin tưởng vào hai đứa bọn con. Chỉ có điều là... ừm, ta không thích hai đứa làm điều gì... ờ... ngu ngốc... trong lúc ta đi vắng. Với tất cả mọi người, sự cám dỗ cũng khó cưỡng lại, và nhất lại là với người trẻ những người chưa nhận thức đầy đủ về hậu quả hành vi của mình gây ra.”
Ô. Giờ thì tôi biết ông đang nói về chuyện gì rồi.
“Nhưng với con và Jesse,” Cha Dominic tiếp tục nói, “thì hậu quả sẽ càng đặc biệt nghiêm trọng hơn nữa nếu hai đứa chẳng may lại... ờ...”
“ – lại đầu hàng dục vọng, khao khát mãnh liệt dành cho nhau chứ gì ạ?” tôi gợi ý khi giọng ông cứ đuối dần.
Cha Dominic đưa mắt dòm tôi tỏ ý không hài lòng. “Ta nói nghiêm chỉnh đấy, Susannah,” ông nói. “Jesse không thuộc về thế giới này. Nếu may mắn thì cậu ta sẽ không còn phải ở lại đây lâu nữa. Hai đứa càng gắn bó sâu đậm với nhau bao nhiêu thì đến lúc phải chia tay sẽ càng khó khăn bấy nhiêu. Bởi vì một ngày nào đó rồi con sẽ phải nói lời từ biệt với cậu ta thôi, Susannah ạ. Con không thể chống lại với trật tự theo lẽ tự nhiên của – ”
Blah blah blah. Môi Cha D đang mấp máy nhưng tôi lại không nghe thấy gì. Tôi chẳng cần nghe bài lên lớp ấy nữa. Ừ thì chuyện giữa Cha D và hồn ma của cô gái từ thời Trung cổ mà ông yêu đã không thành. Điều đó đâu có nghĩa là số mệnh bắt Jesse và tôi đi theo cùng một con đường như thế. Đặc biệt lại càng không, khi nghĩ đến một điều mà tôi đã xoay xở moi được từ tên Paul, một kẻ hình như biết nhiều hơn cả Cha Dom về chuyện làm cầu nối...
... Đặc biệt là một sự thật nho nhỏ rằng, những người làm cầu nối có thể đưa người chết sống lại.
Chỉ có một khuyết điểm duy nhất: Bạn cần có một cái xác để cho hồn người không đáng chết nhập vào đó. Mà thân xác người có phải là một thứ tôi hàng ngày vẫn gặp đâu. Ít nhất thì những thân xác tình nguyện hi sinh linh hồn đang trú ngụ trong đó thì tôi chưa gặp được.
“Con hứa mà, Cha Dom,” tôi nói khi bài thuyết giáo của ông cuối cùng cũng đến hồi kết. “Cha đi San Francisco vui vẻ nhé.”
Cha Dominic nhăn mặt. Tôi đoán những người sắp sửa đi San Francisco thăm các ông monsignor đang hôn mê chả có mấy thời gian đi thăm thú những nơi như Cầu Cổng Vàng, khu phố Tàu hay gì gì đó.
“Cảm ơn, Susannah,” ông nói. Thế rồi ông nhìn tôi một cái sắc nhọn đầy ẩn ý. “Phải ngoan đấy.”
“Đã bao giờ con không ngoan chưa nào?” tôi hỏi có phần ngạc nhiên.
Ông lắc đầu bỏ đi mà không thèm đáp lại câu nào.