“Trong bánh này có bột lúa mì à?” một người đàn bà nhỏ thó trong bộ áo kiểu Trung Quốc, đeo cặp kính râm to tướng hỏi tôi khi bà ta giơ lên một cái bánh chocolate.
“Có ạ,” tôi đáp.
“Thế còn cái này?” Bà ta giơ lên cái bánh chocolate hạnh nhân.
“Có,” tôi đáp.
“Cái này?” Bánh Mexican wedding cookie.
“Có.”
“Ý cô muốn nói,” bà ta hỏi, có vẻ rất tức tối, “là trong tất cả những loại bánh nướng này đều có bột mì à?”
Tôi hạ ghế xuống. Lúc trước tôi vì chán quá bèn ngả ghế để xem mình nhoài ra phía sau được đến chừng nào mà vẫn không ngã.
“Vì Tyler không ăn bột mì,” bà ta nói tiếp, nắm lấy tay một đứa nhóc có đôi má phúng phính đang đứng bên cạnh. Đôi mắt xanh biếc của thằng nhóc chớp chớp nhìn tôi qua những ngón tay sơn sửa tỉa tót hoàn hảo của bà mẹ. “Tôi nuôi nó theo chế độ ăn không có gluten[6].”
“Cô thử cái này vậy,” tôi nói, trỏ vào mấy cái bánh xốp vị chanh.
“Trong đó có bơ sữa không đấy?” người đàn bà nghi ngờ hỏi. “Vì tôi cũng cho Tyler theo chế độ ăn không có đường lactose.”
“Đảm bảo không có bơ sữa lẫn lactose,” tôi nói.
Người đàn bà ta đưa tôi tờ một đôla, tôi đưa cho bà ta mấy cái bánh. Bà ta đưa lại cho Tyler, ông nhóc dòm lom lom, cắn thử một miếng... sau đó cười với tôi một cái tươi như hoa – chắc chắn là nụ cười đầu tiên trong ngày hôm nay – khi bà nắm tay dẫn nó đi mất. Bên cạnh tôi, Shannon, cô bed bán bánh cùng tôi, trông có vẻ sửng sốt.
“Trong mấy cái bánh vị chanh đó có cả bột mì lẫn bơ sữa mà,” nó nói.
“Chị biết.” Tôi lại ngả ghế ra sau. “Chị thấy thương cho đứa nhóc.”
“Nhưng mà – ”
“Bà ta có bảo nó bị dị ứng với thứ đó đâu. Bà ta chỉ nói là nuôi nó theo chế độ kiêng cữ thôi. Tội nghiệp thằng bé.”
“Suu-uuze,” cô nhóc lớp tám nói, kéo tên tôi ra dài ngoằng. “Chị ‘cool’ thật đấy. Em trai chị, Dave nói là chị ‘cool’ nhưng em không tin.”
“Ôi giời, ‘cool’ chứ lị,” tôi đảm bảo với nó. Thật kì cục khi nghe ai đó gọi David là “Dave.” Đối với tôi, nó chỉ là David thôi.
“Thật sự đấy,” Shannon nói, hoàn toàn nghiêm chỉnh.
Sao cũng được. Thật chẳng có gì lạ với chuyện tôi bị kìm chân phải ngồi ở quầy bán bánh ở trường trong khi những kẻ khác tung tăng tận hưởng một ngày thứ Bảy tuyệt vời không chê vào đâu được như thế này. Trên cao kia, bầu trời xanh ngắt không một gợn mây, nhìn lên mà thấy đau lòng. Nhiệt độ thì chỉ tầm 210C, cực kỳ dễ chịu. Một ngày đẹp trời rất hợp để ra biển hay đi làm một cốc cappuccino ở một quán café ngoài trời, hay thậm chí là đi dạo suông thôi.
Thế mà tôi đang ở đâu chứ? Ờ, đang chủ xị quầy bán bánh của bọn lớp tám trong thời gian diễn ra cuộc bán đấu giá đồ cổ gây quỹ từ thiện ở Hội Truyền Giáo.
“Em không tin nổi khi xơ Ernestine bảo với bọn em là chị sẽ giúp bán hàng,” Shannon nói. Tôi giờ thì biết Shannon không phải là đứa nhút nhát gì. Nó thích nói chuyện lắm. Rất thích. “Thì chị là học lớp mười một mà. Và lại còn, chị biết đấy. Cực ‘cool’ nữa chứ.”
‘Cool’. Ờ, phải lắm.
Tôi không ngờ lại có nhiều người đến dự cuộc bán đấu giá này đến vậy. Ừ thì cũng có vài vị phụ huynh hăm hở muốn tỏ ra mình là người quan tâm đến ngôi trường nơi con mình học. Nhưng không phải là hàng đoàn người thích sưu tầm đồ cổ.
Nhưng nơi đây chính xác là như thế đấy. Người ở tứ phương kéo về, những người tôi chưa từng gặp bao giờ, họ đi loanh quanh, nhòm ngó xemét những hiện vật sắp được đưa ra đấu giá, thì thầm to nhỏ với nhau. Thỉnh thoảng có vài người dừng chân nơi quầy bánh của bọn tôi, xì ra tờ đôla kiếm một cái bánh Rice Krispies cho khoái khẩu. Nhưng phần lớn họ chú ý đến những món đồ đắt giá... trong trường hợp này là một cái lồng chim bằng mây xấu đau xấu đớn, cái đồng hồ đeo tay Chuột Mickey, quả cầu tuyết bên trong có Cầu Cổng Vàng, hay một thứ gì đó cũng xấu xí ngang ngửa thế.
Cuộc đấu giá bắt đầu muộn, vì lẽ ra monsignor mới là người chủ trì. Nhưng ông ta vẫn còn đang hôn mê ở tít tận San Francisco kia kìa, thế nên có vẻ xơ Ernestine đã phải làm vài cuộc điện thoại vội vàng để tìm kiếm một người phù hợp làm thay.
Bạn có thể tưởng tượng được tôi ngạc nhiên cỡ nào khi bà ta bước lên cái bục ở cuối sân trời và thông báo qua micro, trước mặt bao nhiêu nhà sưu tầm đồ cổ đang ngồi đó, rằng vì monsignor không có mặt nên buổi đấu giá sẽ được một người khác điều hành, người đó không ai khác là Andy Ackerman, nhân vật nổi tiếng chủ xị một show về tu sửa trang trí nhà cửa trên truyền hình cáp...
... đồng thời là cha dượng của tôi.
Tôi nhìn dượng Andy bước lên bục, vẫy vẫy, trông có vẻ lúng túng trước tràng pháo tay mọi người dành cho mình. Chẳng hiểu còn có thể xấu hổ hơn thế này được nữa không, tôi bèn bắt đầu từ từ cúi người thấp tịt xuống ghế....
Ô, khoan đã, vẫn còn một điều khiến tôi còn xấu hổ hơn chuyện cha dượng tôi chủ trì cuộc đấu giá đồ cổ ở trường đấy. Đó là một sự thật rằng, phần lớn tràng pháo tay mà dượng nhận được đều là từ một người phụ nữ ngồi hàng ghế đầu.
Bà mẹ của tôi.
“Này,” Shannon nói. “Chẳng phải đó là – ”
“Ừ,” tôi ngắt lời nó. “Đúng rồi đấy.”
Vài phút sau, cuộc đấu giá bắt đầu, dượng Andy bắt chước rất giống những ông chủ trì mà bạn hay thấy trên tivi, những người nói như máy khâu ấy. Dượng ấy đang trỏ về phía một cái ghế nhựa màu da cam xấu mù, nói rằng nó “thật sự mang phong cách thiết kế Eames[7]” và hỏi có ai muốn trả giá một trăm đôla để mua không.
Một trăm đôla? Đổi một cái bánh Rice Krispies để lấy thứ đó tôi còn chẳng thèm nữa l biết không, những người tham dự giơ biển lên, và chẳng mấy chốc cái ghế được bán với giá 350 đô! Mà chẳng ai phàn nàn câu nào về chuyện nó nứt toác cả ra rồi.
Rõ ràng xơ Ernestine đã nhấn mạnh với những vị khán giả này rằng ngôi trường cần tiền để tu sửa sân bóng rổ đến như thế nào, bởi lẽ người ta cứ thế vung tiền qua cửa sổ vào những món đồ rác rưởi vô giá trị nhất trên đời. Tôi thấy bà dì Pru của Cee Cee và ông thầy chủ nhiệm Walden cả hai đang tranh nhau trả giá mua một cái đèn xấu dã man tàn bạo. Cuối cùng dì Pru thắng – với cái giá 175 đô – rồi sau đó đi tới chỗ thầy Walden, rõ ràng là để lên mặt hả hê rồi. Chỉ có điều, vài phút sau tôi trông thấy hai người họ uống nước chanh cùng nhau, tôi nghe lóm họ cười đùa về chuyện chia nhau chăm nom cái đèn, cứ như thể nó là đứa con được dàn xếp trong một vụ li dị ấy. Nhìn thấy cảnh đó, Shannon bèn tuôn: “Ối, dễ thương chưa kìa?”
Chỉ có điều, hoàn toàn không như vậy. Hoàn toàn chẳng có gì dễ thương khi bà dì kì quái của đứa bạn thân nhất của bạn và ông thầy chủ nhiệm lại cưa cẩm nhau, trong khi chính bạn thì chẳng thể khiến anh chàng bạn thích gọi điện cho bạn, bởi vì, ờ, đoán thử xem nào, anh ta là một hồn ma và cũng chả có điện thoại.
Nói thế chả phải nếu Jesse có gọi điện thật thì tôi có gì nhiều nhặn để nói với anh ấy. Tôi biết làm gì đây, tuôn thế này chắc: “Ô, phải rồi, tiện thể em nói luôn, tên Paul muốn quay về quá khứ cứu anh để anh không chết đấy. Nhưng em tính chuyện ngăn hắn lại. Vì em muốn anh đi lang thang ở thế giới của người chết một trăm năm mươi năm để anh và em chúng ta có thể chơi trò hôn hít trong xe ô tô của mẹ em. Được chưa? Buh-bye.”
Với lại, chẳng có mấy khả năng chuyện đó sẽ xảy ra đâu. ChuyệnPaul về quá khứ ấy. Bởi lẽ hắn chả có thứ gì dẫn lối về thời đó, giống như ông nội hắn đã nói. Một thứ đưa hắn trở lại cái đêm Jesse chết ấy mà.
Hay đó là những gì tôi tự nhủ thế – tự trấn an thế – ngay trước khi dượng Andy giơ lên một chiếc đai lưng bằng bạc mà Brad tìm được trong khi dọn dẹp tầng áp mái. Khi nó tìm thấy thứ đó – bị kẹt giữa những tấm gỗ lót sàn bên dưới cửa sổ tầng áp mái – thì cái thứ xấu xí bẩn thỉu, cũ mèm đó tôi không thèm liếc đến lần thứ hai. Dượng Andy cho nó vào trong cái hộp đề là ĐỂ ĐẤU GIÁ Ở HỘI TRUYỀN GIÁO, và tôi không nghĩ ngợi gì đến nó nữa
Giờ đây, khi dượng ấy giơ thứ đó lên, tôi trông thấy nó lấp lánh dưới ánh nắng chiều. Ai đó đã rửa sạch và đánh bóng nó rồi. Giờ thì dượng Andy sắp sửa tuôn một tràng về chuyện nó là một món đồ cổ từ thời nhà tôi c là cái khách sạn duy nhất trong vùng – một cách nói khác đi vớ vẩn của việc thực tế nó là cái nhà trọ – và rằng Hội Sử học Carmel đã xác định nó xấp xỉ 150 năm tuổi. Cũng bằng khoảng thời gian anh bạn trai của tôi đã chết.
“Tôi sẽ được giá bao nhiêu cho chiếc đai lưng bằng bạc thật này đây?” Dượng Andy hỏi. “Một món đồ tạo tác khéo léo thực sự. Hãy quan sát chi tiết trên hình chữ D được chạm khắc trên đó.”
Đang ngồi bên cạnh tôi, Shannon đột ngột hỏi: “Em trai chị có bao giờ nhắc đến em không? David ấy?”
Tôi đang hờ hững quanh sát người cha dượng. Mặt trời đang toả nắng chang chang có phần gay gắt xuống đầu chúng tôi, thật khó có thể nghĩ đến điều gì khác ngoài việc tôi ao ước được ra biển đến thế nào.
“Chị không biết,” tôi nói. Tôi tất nhiên là hiểu Shannon đang lo lắng. Con bé đang thích một đứa con trai. Và nó muốn biết liệu mình đang phí phạm thời gian một cách vô ích hay không.
Tuy nhiên, là chị của đối tượng đang trong tầm ngắm của nó, tất cả những gì tôi nghĩ được là... eo ôi. Với lại, David còn quá nhỏ, chưa thể có bạn gái được đâu.
“Một trong những thành viên của hội sử học – đừng tưởng tôi không trông thấy anh ngồi đó nhé, Bob,” dượng Andy cười nói, “thậm chí còn dám liều khẳng định rằng chiếc đai lưng này có thể đã từng thuộc về một người nào đó trong dòng họ Diego, một gia đình rất xưa, rất được tôn kính đã định cư ở vùng này gần hai trăm năm trước.”
Được tôn kính cái của nợ gì chứ. Cái bọn Diego đó – hay ít ra là hồn ma của một trong những kẻ mang dòng họ đó mà tôi đã xui xẻo giáp mặt – rặt một lũ trộm cắp giết người.
“Tôi tin rằng, vì lý do đó, hơn nữa là vật này lại rất đẹp, tinh xảo,” dượng Andy tiếp, “sau này nó sẽ được những nhà sưu tập săn lùng ráo riết... và, ai mà biết được chứ, thậm chí được săn lùng ngay trong ngày hôm nay thì sao!”
“Ở nhà David không hay nói chuyện về các bạn nữ,” tôi nói với Shannon. “Ít ra thì nó không nói với chị.”
“Ồ.” Shannon trông có vẻ chán nản. “Nhưng chị có nghĩ là... ừm, chị có nghĩ là nếu David quả thực có thích một đứa con gái, thì đó có thể là... là một người giống như em không?
“Hãy bắt đầu món đồ trang sức cổ thực sự rất đẹp này với mức giá một trăm đôla,” dượng Andy nói. “Một trăm đôla. Đã có người trả một trăm. Một trăm hai mươi lăm nào? Có ai ra giá một trăm hai mươi lăm không?”
Tôi ngẫm nghĩ về điều Shannon đã hỏi. David, có bạn gái? Đứa em bé nhất trong số ba anh em con dượng tôi, tôi chẳng thể hình dung ra cảnh David có bạn gái cũng giống như không thể hình dung nó ngồi sau tay lái ô tô, hay thậm chí chơi đá bóng. Nó đơn giản không phải là loại con trai như thế.
“Ba trăm năm mươi,” tôi nghe dượng Andy nói. “Tôi nghe thấy ba trăm năm mươi phải không nhỉ?”
Nhưng chắc có lẽ một ngày nào đó David sẽ lái một cái ô tô thật. Ý tôi muốn nói, đến tôi bây giờ cũng còn biết lái xe nữa là, thế mà ngày xưa từng có thời cả nhà tôi không dám nghĩ chuyện đó sẽ thành hiện thực đấy nhé. Cũng đúng thôi, một ngày kia David sẽ mười sáu tuổi, sẽ làm tất cả những gì mà hai ông anh Jake, Brad của nó, và tôi, đang làm như bây giờ.... Bạn biết đấy, lái xe này. Học Lượng giác này. Hôn hít bạn khác giới này.
“Trời ơi Bob,” dượng Andy nói vào chiếc micro. “Cậu không đùa khi lúc trước cậu nói rằng vật này chắc sẽ là món đồ cực kỳ quan trọng trong buổi đấu giá ngày hôm nay, đúng không? Đã có người trả bảy trăm đô. Có ai – Được, bảy trăm năm mươi. Tôi nghe tám trăm đúng không nhỉ?”
“Có chứ,” tôi nói với Shannon. “Sao David lại không thích em được chứ? Ý chị muốn nói, đấy là nếu như nó có thích bạn nào hơn các bạn còn lại một chút. Mà chị không nói điều đó là thật đâu nhé. Theo như chị biết thì không.”
“Thế ạ?” Trông Shannon có vẻ lo lắng. “Vì David thực sự rất thông minh. Mà em nghĩ chắc bạn ấy sẽ chỉ thích con gái thông minh thôi. Nhưng em học toán chẳng giỏi cho lắm.”
“Chắc chắn David chẳng để ý đến điều đó đâu,” tôi nói mặc dù tôi chả chắc chắn tí nào. “Miễn em hiền lành ngoan ngoãn là được.”
“Thế ạ?” Shannon đỏ hồng mặt rất đáng yêu. “Chị thực sự nghĩ thế?”
Chúa ơi, tôi vừa nói cái gì thế không biết? May thay, đúng lúc đó, dượng Andy gõ búa đấu giá một cái thật mạnh, khiến Shannon sao lãng đi khi dượng nói to: “Bán với giá một ngàn một trăm đôla!”
“Chà,Shannon nói. “Nhiều tiền thật đấy.”
Con bé không phải là người duy nhất bất ngờ. Trong đám đông rộ lên tiếng bàn tán ngạc nhiên. Một ngàn một trăm đôla là số tiền bán được của tất cả các món đồ cho đến giờ phút này. Tôi nhướn cổ lên để xem thằng ngốc nào có lắm tiền để đốt vào một thứ đồ vô giá trị đến thế, và tôi hơi sửng sốt khi thấy dượng Andy vẫn đang cầm trong tay cái đai lưng mà Brad đã tìm được ở tầng áp mái...
... và rằng chính Paul Slater chứ không phải ai khác, đang sải bước qua đám đông để lên nhận.
Tôi quan sát trong khi tên Paul vẻ mặt thoả mãn bắt tay dượng Andy, cầm lấy cái đai lưng, rồi lôi tập séc ra. Đúng là một thằng thảm bại, tôi thầm nghĩ. Ý tôi muốn nói, từ lâu tôi đã biết Paul là một kẻ quái dị. Nhưng việc ném đi số tiền hắn khó khăn lắm mới kiếm được – ờ, thực ra cũng chả khó kiếm lắm đâu, bởi lẽ tôi khá chắc chắn rằng hắn mua cái đai lưng đó bằng số tiền ăn cắp được của gia đình Gutierrez – vào một thứ như thế thì... Thật là điên rồ.
Vô lý quá. Tại sao Paul Slater lại chi ra 1100 đô để mua một cái đai lưng rũ rích lạ lùng... cho dù vật đó đã được đánh bóng và chủ nhân trước kia của nó có thể là một người trong dòng họ Diego?
Và rồi, như thể có ai đó cầm búa đấu giá của dượng Andy đến bổ vào đầu tôi một cái, cuối cùng cũng nện cho tôi tỉnh ra, thế là tất cả đều trở nên rõ ràng.
Và tôi bắt đầu cảm thấy như sắp tống ra tất cả chỗ bánh mà hai chị em đã lén tiêu thụ hết sau lưng xơ Ernestine. Có lẽ trên mặt tôi đã biểu hiện ra rồi, vì Shannon đột ngột hít mạnh một hơi và nói: “Chị không sao chứ?”
“Bánh chanh tệ quá,” tôi đáp. “Chị quay lại ngay.” Tôi đứng lên, vội vã rời khỏi bàn bán bánh, vòng qua phía cuối dãy ghế, rồi đi dọc theo lối đi giữa hàng ghế, tiến về phía cái bục nơi tên Paul đang đứng cầm món đồ. Nhưng trước khi tôi kịp đến gần hắn thì có người tóm lấy cánh tay tôi.
Trái tim tôi đang đập thình thịch quá nhanh do chuyện Paul-âm-mưu-ngăn-bạn-trai-tôi-chết, đến nỗi tôi giật bắn mình, quá bất ngờ.
Nhưng hoá ra đó là mẹ tôi mà thôi.
“Susie, cưng à,” mẹ nói, mỉm cười tươi ró dượng Andy đang đứng đằng sau bục đấu giá. “Việc này vui thật, đúng không con? Dượng Andy làm giỏi quá nhỉ?”
“Uh,” tôi đáp, “vâng ạ.”
“Dượng ấy đúng là có tài bẩm sinh nhỉ?” Mẹ tôi yêu người đàn ông này quá rồi. Kinh quá đi mất. Dù là theo một cách tốt đẹp đi chăng nữa. Nhưng vẫn kinh.
“Ừm,” tôi nói. “Mẹ ơi, con phải – ”
Nhưng tôi không cần phải lo. Bởi vì Paul cũng đến tìm tôi. “Suze,” hắn nói, bước xuống bậc thang trên bục. Tôi chậm chân rồi mất. Việc mua bán đã xong. Trong tay hắn là cái đai lưng. “Thật vui được gặp cậu ở đây.”
“Tôi cần nói chuyện với cậu,” tôi nói một cách hằn học quá mức, bởi lẽ cả mẹ tôi lẫn xơ Ernestine đang đứng gần đó, tay bà ta vẫn cầm tờ séc còn nóng hổi của tên Paul, bèn quay lại nhìn tôi.
“Susie, con yêu,” mẹ tôi nói. “Con không sao đấy chứ?”
“Con không sao,” tôi đáp nhanh. Họ có biết không nhỉ? Họ có biết tim tôi đang đập thình thình và miệng thì khô như ngói? “Con chỉ cần nói chuyện với Paul thật nhanh thôi.”
“Thế ai trông bàn bán bánh?” xơ Ernestine hỏi.
“Shannon lo rồi ạ,” tôi nói, tóm lấy cánh tay Paul. Hắn đang nhìn chúng tôi – mẹ tôi, xơ Ernestine, và tôi – với một nụ cười hơi mỉa mai, như thể tất cả những gì chúng tôi đang nói đều khiến hắn thấy tức cười lắm.
“Đừng để nó lại một mình quá lâu đấy,” xơ Ernestine nghiêm khắc nói. Tôi biết bà ta không muốn nói như vậy đâu, nhưng đành phải thế trước mặt mẹ tôi.
“Vâng, thưa xơ,” tôi nói. Và sau đó tôi lôi tên Paul khỏi chỗ bục và ghế, ra đằng sau một trong mấy bàn bày những món đồ còn lại sắp được đem ra đấu giá. “Cậu nghĩ mình đang làm cái gì thế hả?” tôi rít lên với hắn ngay khi ra khỏi tầm nghe của mọi người.
“Chào Suze,” hắn nói, trông như thể hắn vẫn thấy chuyện vừa rồi thú vị lắm. “Rất vui được gặp cậu nữa.”
“Đừng lôi trò đó ra với tôi,” tôi đáp. Thật khó nói chuyện trong khi miệng tôi đang khô thế này, nhưng tôi không chịu thua. “Cậu mua cái đai đó làm gì?”
“Cái này ấy hả?” Paul xoè nắm tay ra, tôi trông thấy sắc bạc loé lên dưới ánh nắng trong một giây trước khi hắn lại tay nắm lại. “Ôi, chẳng biết. Tôi chỉ thấy nó cũng đẹp.”
“Một ngàn một trăm đôla chỉ để mua một thứ đẹp đẽ?” Tôi trừng mắt nhìn hắn, hi vọng hắn không thấy tôi đang run cỡ nào. “Thôi đi Paul, tôi đâu có ngu. Tôi biết cậu mua thứ đó làm gì rồi.”
“Thế á?” Nụ cười khoe răng của Paul khiến tôi tức chưa từng thấy. “Nói cho tôi biết với.”
“Chỉ có điều, việc đó vô ích thôi.” Tim tôi đang dộng thình thình vào lồng ngực, nhưng tôi biết không còn đường lui nữa. “Jesse mang họ de Silva. Là chữ S, không phải D. Đó không phải đai lưng của anh ấy.” Tôi những mong điều đó phủi sạch nụ cười khó chịu hết biết đó trên mặt Paul.
Chỉ có điều, không. Khoé miệng hắn không hề xê dịch. “Tôi biết nó không phải đai lưng của Jesse,” hắn nói giọng đều đều. “Còn gì nữa không, Suze? Tôi đi được chưa?”
Tôi trố mắt nhìn hắn. Tôi có thể cảm thấy mạch trong người mình chậm lại, âm thanh vang lên ù ù trong tai tôi kể từ lúc tôi nhận ra hắn là chủ nhân mới của cái đai giờ đột ngột biến mất. Lần đầu tiên trong suốt mấy phút đồng hồ vừa rồi, tôi có thể hít một hơi thật sâu. Trước đó tôi chỉ có thể thở ngắn, hổn hển mà thôi.
“Thế... thế thì cậu cũng biết,” tôi nói, thật kỳ cục, cảm thấy nhẹ nhõm hẳn, “cậu biết cậu không thể dùng thứ đó để... để quay về quá khứ cứu Jesse.”
“Tất nhiên là được chứ,” Paul nói, nụ cười của hắn ngoác ra rộng hơn bao giờ hết. “Vì tôi sẽ dùng thứ đó để quay về quá khứ, ngăn chặn vụ giết Jesse. Chào cậu nhé Suze.”