Thầy Walden giơ một tập giấy Scantron[4] và nói: “Nhớ chỉ được dùng bút chì số 2.”
Ngay lập tức tay của Kelly Prescott giơ lên.
“Thưa thầy Walden, việc này là không hợp lệ.” Kelly đảm nhiệm vai trò chủ tịch hội học sinh khối 11 một cách cực kỳ nghiêm túc... đặc biệt là những khi có liên quan tới việc lên lịch các buổi dạ vũ. Và, rõ ràng là liên quan đến cả những bài test đánh giá năng lực. “Chúng em phải được báo trước ít nhất hai mươi bốn tiếng là ngày hôm nay chúng em sẽ làm một bài kiểm tra của bang đề ra chứ ạ.”
“Bình tĩnh đi, Prescott.” Thầy Walden – giáo viên chủ nhiệm và cố vấn lớp tôi – bắt đầu đi phát các tập Scantron. “Đây chỉ là bài test năng lực thôi, đâu phải bài kiểm tra của các môn học trên lớp. Điểm số của các anh các chị sẽ không bị ghi vào học bạ. Những bài test này là để” – thầy ấy cầm lên một tập bài trên bàn giáo viên và đọc to – “ ‘giúp các anh chị xác định xem ngành nghề nào là phù hợp nhất với những khả năng, sở thích và / hoặc thành tích đã đạt được.’ Hiểu chưa? Chỉ cần trả lời các câu hỏi đó thôi.” Thầy Walden hạ đánh rầm một chồng giấy ghi câu trả lời lên bàn tôi để tôi chuyển xuống phía dưới cho mọi người trong dãy của mình. “Các anh chị có năm mươi phút để hoàn thành. Và không nói chuyện.”
“ ‘Anh/chị thích điều kiện làm việc nào hơn: a) ở bên ngoài?, hay b) làm ở nhà?’ ” Tôi nghe thấy tiếng thằng Brad, con dượng tôi, đọc to lên từ phía bên kia lớp học. “Này, thế còn ‘c) làm việc trong khi xỉn quắc cần câu’ đâu, sao không thấy?”
“Đúng là thằng thảm bại,” Kelly Prescott phá lên cười.
“ ‘Anh/chị là người ‘thức đêm’ hay ‘thức ngày’?’ ” Adam McTavish làm bộ vờ như bị sốc. “Bài test này hoàn toàn không công bằng với những người mắc chứng ngủ rũ.”
“ ‘Anh/chị làm việc có hiệu quả nhất khi: a) làm một mình, hay b) làm theo nhóm?’ ” Cee Cee, cô bạn thân nhất của tôi, dường như không giấu nổi vẻ chán ghét. “Ôi giời, thật ngớ ngẩn không để đâu cho hết.”
“Trong câu ‘không nói chuyện’ có chỗ nào các người không hiểu hả?” thầy Walden hỏi.
Nhưng chả ai thèm nghe thầy gì hết.
“Thật là ngớ ngẩn,” Adam dõng dạc nói. “Làm sao mà một bài test thế này lại có thể xác định được mình có phù hợp với một nghề nghiệp nào đó hay không chứ?”
“Nó đánh giá năng lực của cậu, đồ đần ạ.” Kelly nói giọng bực bội. “Cái nghề duy nhất cậu đủ năng lực để làm là bán bánh ở In-N-Out Burger[5] ấy.”
“Cái quán mà ở đó cậu, Kelly, sẽ làm một chân chiên rán,” Paul nói không chút cảm xúc, khiến cho những đứa còn lại trong lớp cười gần chết....
Cho đến khi thầy Walden gầm lên (thầy ấy đang ngồi chỗ bàn giáo viên, cố đọc tờ Tạp chí dành cho dân Lướt sóng): “Có muốn sau khi tan học ở lại lớp để hoàn thành bài test đó không hả? Vì tôi rất vui lòng giữ các anh chị lại; tôi cũng chả còn việc gì khác hay hơn để làm đâu. Giờ thì im hết cả đi, làm nốt.”
Câu đó có hiệu quả đáng kể trong việc chấm dứt những tiếng nói chuyện trong lớp.
Tôi ngồi điền vào những ô trống nhỏ, cảm thấy thật khốn khổ. Nỗi khốn khổ đó không chỉ bắt nguồn từ việc tôi chẳng ngủ được tiếng đồng hồ nào cả. Còn những vấn đề khác đau đầu hơn là những bài test đánh giá năng lực, dù nghĩ đến điều đó cũng không giúp tôi cảm thấy đỡ hơn. Phải, những bài test ấy không phù hợp với tôi lắm. Số phận của tôi đã được sắp đặt sẵn rồi... sắp đặt kể từ khi tôi sinh ra. Số phận đã bắt tôi lớn lên trở thành một con người duy nhất mà thôi. Bất cứ nghề nghiệp nào tôi chọn rồi cũng sẽ chỉ cản trở tôi làm công việc thực sự của mình, đó là giúp đỡ những hồn ma đi đến cái đích cuối cùng của họ.
Tôi liếc sang chỗ Paul. Hắn đang cắm cúi vào tập giấy Scantron, điền câu trả lời vào những ô trống, khẽ mỉm cười. Tôi tự hỏi không biết hắn đang viết gì ở phần ghi những sở thích. Tôi thấy chả có chỗ nào trên tờ giấy có phần ghi là thích đe doạ người khác. Hay là làm một tay trộm nguy hiểm ạm trọng tội.
Tôi tự hỏi, sao hắn còn quan tâm đến bài test này cơ chứ? Nó có giúp gì được cho chúng tôi đâu nào. Chúng tôi mãi mãi sẽ là những người làm cầu nối, trước hết là như vậy, cho dù có chọn những nghề nghiệp khác đi nữa. Cứ nhìn Cha Dominic đấy. Ừ thì ông đã cố gắng giấu kín vai trò một người làm cầu nối, đó là một bí mật... bí mật ngay cả với nhà thờ, bởi vì chủ nhân của ông là Chúa trời, Chúa trời tạo ra những người làm cầu nối, Cha D nói như vậy.
Tất nhiên Cha D không chỉ là một linh mục. Ông đã từng dạy học rất nhiều năm, thậm chí còn giành được một số bằng khen, cho đến khi được đề bạt làm hiệu trưởng ngôi trường.
Nhưng với Cha Dom thì khác. Ông thực sự tin rằng khả năng nhìn thấy và nói chuyện với người chết là một món quà mà Chúa đã ban cho. Ông không nhìn nhận đúng như thực chất của nó: đó là một lời nguyền.
Chỉ có điều... có điều là, nếu không phải chịu lời nguyền ấy thì tôi sẽ chẳng bao giờ gặp được Jesse cả.
Jesse. Những ô trống nhỏ trước mặt tôi trở nên nhoè đi khi mắt tôi chan chứa nước. A, hay lắm. Giờ thì lại còn khóc nữa. Ngay khi đang ở trường thế này.
Nhưng làm sao tôi ghìm được? Tôi giờ thế này đây, tương lai đang mở ra trước mắt... tốt nghiệp cấp 3, học đại học, đi làm. Ừm, một nghề làm tạm trên danh nghĩa thôi, vì ai cũng biết cái nghề thực sự của tôi là gì rồi mà.
Thế còn Jesse thì sao? Anh ấy thì có tương lai gì nào?
“Cậu làm sao đấy?” Cee Cee xì xào hỏi.
Tôi lấy ống tay áo hàng Miu Miu chấm chấm lên mắt. “Không sao,” tôi khẽ đáp. “Dị ứng thôi.”
Cee Cee có vẻ nghi ngờ, nhưng rồi quay lại làm tiếp tập bài test.
Trước đây đã có lần tôi hỏi anh muốn trở thành người như thế nào. Jesse ấy mà. Trước khi anh ấy chết. Ý tôi muốn hỏi là anh ấy thích được làm nghề gì, nhưng anh ấy không hiểu. Khi tôi nói rõ ra, anh ấy mỉm cười buồn bã.
“Hồi anh còn sống, mọi thứ khác lắm, Susannah ạ,” anh ấy nói. “Bố anh chỉ có mình anh là con trai. Mọi người trông đợi anh sẽ thừa hưởng trang trại của gia đình, làm việc ở đó để phụng dưỡng mẹ, nuôi các em gái sau khi bố qua đời.”
Anh ấy không nói thêm rằng một phần trong dự định đó là cưô gái có ông bố sở hữu khi điền trang bên cạnh, để cho đất đai của hai nhà sẽ hợp nhất thành một đại trang trại Anh ấy cũng chẳng nhắc đến chuyện cô ta chính là kẻ đã sai người đi giết hại anh ấy, vì cô ta thích gã khác rồi, một gã mà bố cô ta chẳng ưa gì cho lắm. Anh ấy không nói, bởi lẽ tất cả những điều ấy tôi đều biết cả rồi.
Tôi nghĩ, cuộc sống thật chẳng dễ dàng gì, cho dù vào những năm 1850 ngày xưa đi nữa.
“Ồ,” tôi chỉ biết đáp lại như thế. Trong giọng nói của Jesse không có chút gì biểu lộ một vẻ oán trách, nhưng tôi thì thấy điều đó thật bất công. Nếu như anh ấy không muốn làm một người cai quản trang trại thì sao? “Vậy anh muốn được làm nghề gì? Nếu anh được phép lựa chọn ấy mà?”
Jesse trầm ngâm suy nghĩ. “Anh không biết nữa. Hồi đó khác, Susannah ạ. Anh cũng khác. Đôi lúc anh nghĩ là... chắc có lẽ anh muốn làm bác sỹ.”
Một bác sỹ. Điều đó hoàn toàn dễ hiểu – ít ra là với tôi. Tất cả những lần tôi lê lết về nhà, trên người đầy những chỗ đau nhức – vì cây sồi độc hay những vết bỏng dưới chân – thì Jesse đều đến bên tôi, những cái chạm tay của anh ấy êm nhẹ tựa như nhung. Thực sự anh ấy sẽ trở thành một bác sỹ rất giỏi.
“Vậy sao anh lại không làm thế?” tôi hỏi. “Trở thành một bác sỹ ấy mà? Chỉ vì bố anh thôi sao?”
“Ừ, cái chính là như vậy,” anh ấy đáp. “Anh không bao giờ dám nói với bất kỳ ai về điều đó. Anh còn chẳng thể rời khỏi trang trại dù chỉ trong vài ngày, chứ đừng nói đến chuyện đi học trường y mấy năm trời. Nhưng có lẽ anh thích việc đó. Thích học y ấy mà. Dù rằng hồi anh còn sống,” anh ấy nói thêm, “người ta không hiểu biết nhiều về thuốc như bây giờ. Được làm việc trong những ngành khoa học thời nay hẳn sẽ rất thú vị.”
Và anh ấy cũng hiểu biết rất nhiều. Jesse đã có cả 150 năm lưu lại trên thế giới này, chứng kiến những phát minh – điện, ô tô, máy bay, máy vi tính... đấy là chưa nói đến thuốc kháng sinh penicillin, các loại vaccine chữa các bệnh mà ngày xưa đã từng giết hại hàng triệu người – những phát minh đã thay đổi thế giới này, biến nó trở thành một nơi hoàn toàn khác biệt với thế giới mà anh ấy từng sinh ra và lớn lên.
Nhưng thay vì cứ bướng bỉnh nuối tiếc quá khứ như một số người khác, Jesse lại thích thú hoà mình theo dòng chảy của thời gian, đọc bất cứ thứ gì có thể tìm được, từ tiểu thuyết bìa mềm cho đến những cuốn bách khoa toàn thư. Anh ấy nói mình còn phải học thật nhiều để theo kịp. Sách anh ấy thích dường như là những cuốn to nặng không thuộc thể loại tiểu thuyết anh ấy mượn được của Cha Dom, tất tần tật từ triết học cho đến những cuộc nghiên cứu tìm hiểu các loại virus mới xuất hiện – loại sách mà tôi sẽ tặng cho bố mình vào Ngày Của Bố, nếu như bố còn sống. Dượng Andy thì lại khác, dượng thích những cuốn sách dạy nấu ăn hơn. Nhưng bạn hiểu ý tôi muốn nói gì rồi đấy. Những thứ tôi thấy thật khô khan, chẳng có gì thú vị thì với Jesse, chúng lại hết sức lý thú. Có lẽ bởi vì anh ấy thấy mọi thứ mới mẻ đang dần mở ra trước mắt.
Tôi thở dài, cúi nhìn xuống hàng trăm lựa chọn nghề nghiệp đang bày ra trước mắt. Jesse đã chết, nhưng đến anh ấy còn biết mình muốn làm nghề gì... sẽ làm gì, nếu như còn sống. Hay không muốn làm gì, cứ xem những điều anh ấy đã kể về những dự định của ông bố dành cho anh ấy thì biết.
Còn tôi đây, có tất cả những điều kiện thuận lợi trên đời này, vậy mà tất cả những điều tôi nghĩ mình muốn làm khi lớn lên lại là...
Được ở bên Jesse.
“Còn hai mươi phút nữa.” Giọng thầy Walden vang lên thật to trong lớp, khiến tôi giật mình, cắt ngang dòng suy nghĩ. Tôi thấy mình đang nhìn chăm chăm ra phía đại dương chỉ cách Hội truyền giáo chưa đầy một dặm, có thể nhìn thấy qua gần hết các ô cửa sổ lớp học... nó khiến cho những đứa học sinh như tôi mất tập trung. Khác với phần lớn bọn bạn cùng lớp, tôi lớn lên ở nơi chẳng có biển. Đại dương luôn là một điều diệu kỳ khiến tôi hứng thú.
Cũng gần giống như Jesse có hứng thú với khoa học hiện đại vậy. Chỉ có điều, khác với Jesse, tôi thực sự có cơ hội được làm những gì mình thích.
“Mười phút nữa,” thầy Walden thông báo, lại khiến tôi giật mình.
Mười phút nữa. Tôi cúi nhìn tờ giấy trả lời câu hỏi còn trống một nửa. Cùng lúc ấy, tôi thấy Cee Cee lo lắng liếc về phía mình từ chỗ ngồi bên cạnh. Cô ấy hất đầu về phía tờ giấy. Làm đi thôi, cặp mắt màu tím của Cee Cee giục giã.
Tôi cầm bút chì lên và bắt đầu cuống cuồng điền vào những chỗ trống. Tôi chẳng quan tâm mình chọn đáp án nào. Bởi lẽ, thực sự, tôi mặc kệ tương lai của mình sẽ ra sao. Không có Jesse, tôi chẳng có tương lai nào hết. Dĩ nhiên, kể cả khi có anh ấy thì cũng thế thôi. Anh ấy sẽ làm gì mới được? Theo tôi khi tôi đi học đại học? Đi làm công việc đầu tiên? Có căn hộ đầu tiên?
Ờ. Hẳn rồi.
Paul nói đúng. Tôi thật ngu ngốc. Ngu ngốc khi lại đi yêu một hồn ma. Ngu ngốc khi nghĩ rằng chúng tôi sẽ được ở bên au trong tương lai. Ngu ngốc.
“Hết giờ.” Thầy Walden bỏ chân khỏi bàn. “Tất cả bỏ bút xuống. Chuyển tờ ghi đáp án lên cho người ngồi trước.”
Tôi chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi Paul tiến đến bên tôi sau khi thầy Walden cho tan lớp vào giờ ăn trưa. “Việc đó đúng là vô nghĩa,” hắn trầm giọng khi chúng tôi đến chỗ tủ để đồ. “Ý tôi muốn nói, chẳng phải con đường sự nghiệp của chúng ta đã được vạch sẵn rồi đấy thôi, đúng không?”
“Ừm, việc chúng ta đang làm cũng đâu có kiếm được ra tiền,” tôi nói, rồi nhận ra khi đã quá muộn, rằng Paul cũng đã xoay xở kiếm được đấy chứ.
“Kiếm tiền một cách chân chính,” tôi chỉnh lại.
Nhưng thay vì cảm thấy xấu hổ như tôi mong muốn, Paul chỉ nhe răng cười. “Thế nên tôi đã quyết định sẽ làm công việc liên quan đến ngành luật,” hắn nói. “Bố cậu là luật sư phải không?”
Tôi gật. Tôi không thích nói về bố của mình với tên Paul. Bởi vì bố là một người chẳng bao giờ làm điều gì sai trái độc ác cả. Còn Paul thì hoàn toàn... không như vậy.
“Ờ, tôi cũng đã nghĩ thế,” Paul tiếp. “Với luật pháp, chả có cái gì là toàn trắng hay đen. Tất cả đều chỉ một màu xám thôi. Chỉ cần cậu tìm ra được một tiền lệ đã có sẵn là được.”
Tôi không nói gì cả. Tôi có thể dễ dàng hình dung ra tên Paul trong vai luật sư. Không phải một luật sư giống như bố tôi trước kia, người bênh vực cho những người nghèo, mà là loại luật sư bênh vực những người nổi tiếng, những kẻ cho rằng mình đứng trên cả luật pháp... và vì có vô số tài sản dốc vào cho người bào chữa nên những kẻ đó đúng là có phần đứng trên luật pháp thật.
“Cậu thì lại khác,” Paul nói. “Tôi nghĩ cái số cậu phải làm cho cơ quan dịch vụ xã hội. Cậu bẩm sinh đã là một người chuyên làm điều tốt mà.”
“Ờ, phải,” tôi nói khi dừng lại bên ngăn tủ của mình. “Có lẽ tôi sẽ tiếp bước Cha Dom, làm một nữ tu.”
“Thế thì,” Paul nói, đứng dựa vào ngăn tủ bên cạnh tủ của tôi, “thật là phí phạm. Tôi đang nghĩ đến một nghề giống với nghề làm công tác xã hội thì đúng hơn. Hay là một bác sỹ trị liệu vậy. Cậu rất giỏi giải quyết rắc rối của người khác mà.”
Đúng là thế còn gì? Vì lý do đó mà ngày hôm nay hai mắt tôi cứ đờ ra, người thì mệt m. Bởi vì, sau khi tạm biệt Jesse đêm qua, tôi lái xe về nhà, trèo lên giường... chỉ có điều không phải để ngủ. Thay vì vậy, tôi nằm thao thức, nhìn lên trần nhà, nghĩ đi nghĩ lại những gì Jesse đã nói với mình. Không phải về Paul mà là về một điều Paul đã bắt tôi đọc to lên vào buổi chiều ngày hôm đó: Tiềm năng của những người dịch chuyển không chỉ giới hạn trong việc nói chuyện với người chết và chuyển dịch tức thời giữa thế giới của chúng ta và thế giới bên kia, mà họ còn có khả năng du hành trong chiều thứ tư theo ý muốn.
Chiều thứ tư. Thời gian.
Hai từ đó khiến lông trên cánh tay tôi dựng cả lên, dù hôm nay là một ngày thu đẹp trời đặc trưng ở Carmel, không lạnh chút nào. Có thể nào đó là sự thật? Một điều như thế có thể xảy ra sao? Có thể nào những người làm cầu nối – hay người chuyển dịch giữa hai thế giới, như Paul và ông nội hắn cứ nhất định gọi như thế – có khả năng du hành xuyên thời gian cũng như đi lại giữa thế giới của người sống và người chết?
Và nếu như – một chữ ‘nếu’ rất to đấy nhé – điều này đúng là có thật, thì việc đó nghĩa là thế nào? Quan trọng hơn là, tại sao Paul lại cứ nhất mực muốn tôi phải biết về điều đó?
“Trông cậu như ngơ ngơ ấy,” Paul quan sát khi tôi tống đống sách vào, lôi ra chiếc túi giấy đựng đồ ăn trưa mà dượng tôi đã làm: salad gà tandoori. “Có chuyện gì thế? Thiếu ngủ à?”
“Cậu biết rồi còn gì,” tôi đáp, trừng mắt nhìn hắn.
“Tôi đã làm gì chứ?” hắn nói, có vẻ ngạc nhiên thực sự.
Chẳng biết đó là do tôi mệt mỏi rã rời, hay do bài test đánh giá năng lực khiến tôi phải suy nghĩ về tương lai của mình... tương lai của mình và của Jesse, nhưng đột ngột, tôi cảm thấy hết sức chán ngán với Paul và những trò của hắn. Và tôi quyết định nhắc cho hắn nhớ cái trò mới đây nhất hắn đã bày ra.
“Chiều thứ tư,” tôi nhắc. “Du hành xuyên thời gian?”
Tuy vậy, hắn chỉ nhe răng cười khì. “A, tốt, cậu đã hiểu ra rồi. Cũng mất khá lâu đấy nhỉ.”
“Cậu thực sự nghĩ rằng những người chuyển dịch có khả năng đi xuyên thời gian ư?” tôi hỏi.
“Tôi không nghĩ,” Paul đáp. “Mà là tôi biết.”
Lại một lần nữa tôi cảm thấy ớn lạnh. Đúng làđang đứng trong bóng râm của cái lối đi, nhưng cách đó không xa, trong sân trời của Hội truyền giáo, mặt trời đang toả nắng chang chang mà. Những con chim ruồi bay từ bông hoa dâm bụt ngày sang bông hoa khác. Khách du lịch đang chụp ảnh bằng những chiếc máy ảnh kỹ thuật số.
Thế thì gai ốc nổi lên trên tay tôi là do đâu được chứ?
“Tại sao?” tôi hỏi, cổ họng đột ngột trở nên khô khốc. “Vì cậu đã từng làm thế rồi à?”
“Chưa,” hắn thản nhiên nói. “Nhưng tôi sẽ làm. Sớm thôi.”
“Phải lắm,” tôi nói, nỗi sợ khiến tôi trở nên ăn nói mỉa mai. “Chắc cậu có thể quay lại cái đêm cậu ăn cắp số tiền của bà Gutierrez, và lần này thì không làm như thế nữa.”
“Giời ạ, cậu quên việc đó đi không được à?” Hắn lắc đầu. “Có mỗi hai ngàn đô chứ mấy. Cậu cứ làm như hai triệu không bằng.”
“Này, Paul.” Kelly Prescott rời khỏi hội sành điệu của cô ta – bọn Đức quốc xã dưới lốt đồ hiệu Dolce and Gabbana, Cee Cee bắt đầu quen miệng gọi chúng như thế – và bước đến gần, chớp chớp cặp lông mi trĩu nặng mascara. “Cậu đi ăn trưa không?”
“Chờ đấy,” Paul nói với cô ta... không được tử tế cho lắm, thế mà cô ta lại là bồ của hắn trong buổi dạ hội vào cuối tuần sau cơ đấy. Kelly dù tức cũng cố kiềm chế đủ để liếc cho tôi một cái đầy khinh miệt trước khi bước ra cái sân trời nơi chúng tôi ngày nào cũng ăn trưa ở đó.
“Tôi không hiểu,” tôi nhìn hắn chằm chằm. “Nếu quả thật chúng ta có thể du hành xuyên thời gian thì sao chứ? Chả có gì ghê gớm. Dù đến nơi đi nữa chúng ta cũng có thay đổi được gì đâu nào.”
“Sao?” Đôi mắt xanh của Paul ánh lên vẻ tò mò. “Vì ông tiến sỹ trong phim Back to the Future (Trở lại tương lai) đã nói thế à?”
“Bởi vì cậu không thể... cậu không thể làm xáo trộn trận tự theo lẽ tự nhiên của mọi thứ,” tôi đáp.
“Sao lại không? Chẳng phải hàng ngày khi đóng vai người làm cầu nối thì cậu cũng đã làm như thế hay sao? Chẳng phải cậu cũng thay đổi trật tự theo lẽ tự nhiên của mọi thứ khi đưa những linh hồn đến với thế giới bên kia hay sao?”
“Việc đó khác,” tôi đáp.
“Khác thế nào?”
“Bởi vì những người đó vốn đã chết sẵn rồi! Họ chẳng làm được điều gì có thể thay đổi tiến trình lịch sử cả.”
“Giống như bà Gutierrez và hai ngàn đô?” Cái nhìn của Paul thật sắc sảo. “Cậu nghĩ nếu cậu đưa số tiền đó cho con trai bà ta thì việc đó không làm thay đổi tiến trình lịch sử? Cho dù chỉ một chút?”
“Nhưng như thế không giống với việc đi đến một không gian khác để thay đổi một chuyện đã xảy ra. Như thế chỉ đơn giản là... sai trái.”
“Thế ư, Suze?” Một bên khoé miệng Paul nhếch lên. “Tôi không nghĩ vậy. Mà cậu biết sao không? Tôi cho rằng lần này, anh chàng Jesse của cậu sẽ đồng ý với tôi đấy.”
Và đột ngột, lối đi có mái che ấy trở nên giá lạnh hơn bao giờ hết.