Đó là một đêm mát mẻ, trời trong. Trăng tròn vành vạnh. Đứng trong sân trước, tôi thấy trăng lơ lửng phía trên mặt biển như một chiếc bóng đèn - không phải là loại bóng đến cả trăm oát như mặt trời, mà có lẽ chỉ là cái bóng đèn trong chiếc đèn bàn bình thường. Nhìn từ xa, mặt biển Thái Bình Dương phẳng lặng mang một màu đen duy nhất, trừ một dải ánh sáng phản chiếu từ mặt trăng.
Dưới ánh trăng tôi cũng có thể trông thấy mái vòm màu đỏ của nhà thờ Trường Truyền Giáo. Nhưng trông thấy Trường không có nghĩa là nó ở gần đó. Ngôi trường cách nơi này phải đến 2 dặm. Chìa khoá của chiếc Rambler đang nằm trong túi tôi, tôi đã thó được nửa giờ trước. Nhiệt độ cơ thể tôi khiến cho thanh kim loại ấy cũng ấm lên. Ban ngày chiếc Rambler vốn màu lam thì giờ đây lại mang một sắc xám dưới bóng râm của đường đi.
Này, tôi biết là tôi chưa có bằng lái chứ. Nhưng nếu Ngu Ngơ làm được thì...
Thôi được rồi. Tôi hơi bị kém tắm. Có nên lái không nhỉ? Ý tôi muốn nói là, không phải tôi không biết lái. Tất nhiên tôi biết lái chứ. Chỉ là không luyện tập nhiều cho lắm, vì trước giờ tôi toàn sống trong thủ đô của thế giới toàn sử dụng phương tiện giao thông công cộng mà.
Ôi, thôi kệ. Tôi quay lại, hướng về phía gara. Thế nào mà chẳng có một chiếc xe đạp đâu đó quanh đây. Những 3 đứa con trai cơ mà, đúng không nào? Thế nào cũng có thôi.
Tôi tìm thấy 1 cái. Tất nhiên là xe con trai, cái thanh chắn ngu si, và cái yên xe bé tẹo, cứng quèo. Nhưng có vẻ nó vẫn dùng được. Ít nhất thì 2 bánh xe cũng không xẹp lép.
Rồi tôi tự nhủ, Ôkê, đứa con gái mặc đồ đen, cưỡi xe đạp nhong nhong trên đường sau nửa đêm, mình còn cần gì nữa nhỉ?
Chắc tôi không kiếm băng dính phản quang đâu, nhưng tôi nghĩ một chiếc mũ bảo hiểm xe đạp có thể giải quyết xong xuôi. Có một cái treo toòng teng trên cái móc phía tường bên của gara. Tôi hạ mũ áo xuống, đội mũ bảo hiểm lên. Ờ, phải rồi. Sành điệu và an toàn, tôi đây chứ ai.
Và thế là tôi thượng lộ, dọc theo đường đi - lái xe đạp trên sỏi thì đúng là chả dễ dàng gì, nhất là lại xuống dốc nữa chứ. Rồi toàn bộ con đường hoá ra lại thành dốc, vì ngôi nhà nhìn ra vịnh được xây dựng trên sườn dốc như núi vậy. Xuống dốc chắc chắn là dễ hơn lên dốc - không đời nào tôi có thể đạp xe ngược dốc; tôi biết khá chắc là lúc về nhà rồi tôi sẽ phải đẩy thôi - về nhà thì chắc chắn là phải leo dốc, nhưng xuống dốc thì cũng khá đau thương. Ngọn đồi thì rõ là dốc, đường thì ngoằn ngoèo, không khí ban đêm thì lạnh, đến nỗi suốt thời gian lái xe mà tim cứ thót lên tận cổ, nước mắt thì ràn rụa xuống má vì gió. Lại còn lắm ổ gà chứ -
Chúa ơi. Lao phải một cái ổ gà, cái yên ngu si làm tôi đau điếng.
Nhưng ngọn đồi chưa phải là điều tệ nhất đâu. Khi xuống đến hết đồi thì tôi gặp phải đường giao nhau. Điều này còn kinh khủng hơn cả cái đồi bởi vì cho dù là quá nửa đêm đi nữa thì vẫn có ôtô. Một cái nhè tôi mà bấm còi. Nhưng có phải lỗi của tôi đâu. Tôi đang lao quá nhanh, vì ngọn đồi thì dốc, đến nỗi mà nếu dừng lại thì có lẽ tôi bay ra khỏi tay lái mất rồi. Thế là tôi cứ đạp tiếp, tránh vừa kịp lúc một cái xe tải không mui phía sau, và sau đó, chẳng biết làm sao, tôi đang hướng đến bãi đỗ xe của trường rồi.
Trường Truyền Giáo vào ban đêm trông rất khác so với ban ngày. Một là, ban ngày thì bãi đỗ xe luôn luôn kín chỗ, đầy nhóc ôtô của giáo viên, học sinh và của du khách đến tham quan nhà thờ. Giờ đây bãi đất trống, không có một cái xe nào hết, và yên ắng đến nỗi bạn có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ bờ ở bãi biển Camel vọng lại từ xa xa.
Điều thứ 2, tôi đoán là để dành cho khách du lịch, người ta đã dựng những đèn chiếu mạnh để chiếu sang những vị trí nhất định của toà nhà, ví dụ như mái vòm - sáng rõ luôn - và sân trước nhà thờ có lối vào rộng rãi. Phía sau toà nhà, nơi tôi dừng xe, thì lại khá tối. Điều này thực ra lại hợp với tôi. Tôi giấu chiếc xe phía sau cái thùng phế liệu, để lại chiếc mũ bảo hiểm còn đang toòng teng trên một bên tay xe và tiến đến bên một cái cửa sổ. Trường Truyền Giáo trông như thể được xây từ cả triệu năm rồi vậy, từ cái thời chưa có máy điều hoà hay máy sưởi cơ, để làm mát vào mùa hè và giữ ấm vào mùa đông, người ta xây những bức tường nhà rất dày. Điều đó có nghĩa là tất cả cửa sổ của Trường được xây thụt vào trong đến cả 30 phân.
Tôi trèo lên trên một cái ghế cạnh cửa sổ có sẵn, nhìn quanh để chắc chắn không ai trông thấy. Nhưng không có một ai ngoại trừ vài con gấu đang bám rễ quanh cái thùng phế liệu kiếm tí đồ ăn thừa buổi trưa. Rồi tôi khum tay che mặt để tránh ánh trăng và lẻn vào.
Đó là lớp học của thầy Walden. Ánh trăng rọi vào giúp tôi nhìn thấy những nét chữ của thầy trên bảng, và cái poster to oành của Bob Dylan - người thầy yêu thích - dán trên tường.
Tôi chỉ mất có một giây để đấm vỡ kính trên một trong những khung cửa sổ bằng sắt lỗi thời, thò vào, mở chốt cửa. Cái khó trong việc phá cửa sổ không phải là ở chỗ đập kính hay thậm chí thò tay vào, mà chính là lúc rút tay ra luôn luôn bị kính cứa vào. Tôi đi đôi găng chuyên-trị-ma tốt nhất, đôi găng dày với những khớp bọc cao su, tôi đã từng xắn tay áo lên để rồi cả cánh tay đầy vết xước.
Nhưng lần này thì không như vậy. Hơn nữa, cửa sổ này mở ra phía ngoài thay vì mở lên trên, đung đưa về phía trước đủ để một đứa con gái cỡ tôi chui vào. Đôi lúc tôi phá những chỗ hoá ra lại được lắp chuông báo động rồi - hậu quả là tôi có một chuyến du hành về nhà không lấy gì làm dễ chịu phía sau của một trong những cái xe ôtô tốt nhất New York - nhưng hệ thống an ninh Trường Truyền Giáo lại chưa đến độ công nghệ cao thế đâu. Trên thực tế, hệ thống an ninh của họ chỉ có mỗi việc khoá cửa sổ và cửa ra vào, mong rằng không có chuyện gì xảy ra mà thôi.
Điều này làm tôi cực kỳ hài lòng.
Khi vào được lớp học của thầy Walden, tôi đóng cánh cửa sổ phía sau lưng lại. Đâu có dại gì tiết lộ cho bất cứ người nào tình cờ kiểm tra bên ngoài - nếu có. Dò dẫm giữa các dãy bàn chẳng khó khăn gì vì ánh trăng rất sáng. Khi tôi mở cửa ra vào và bước ra ngoài lối đi, tôi thấy mình cũng không cần phải dùng đèn pin nữa. Khoảnh sân tràn ngập ánh sáng. Tôi đoán Trường Truyền Giáo mở cửa cho khách tham quan đến tận khuya, vì vẫn còn những chiếc đèn pha lớn màu vàng ẩn dưới mái hiên trên lối đi, rọi sáng nhiều thứ: cây cọ cao nhất, cái cây mà phía dưới trồng bụi hoa dâm bụt lớn nhất; đài phun nước vẫn bật dù nơi này đã đóng cửa, và dĩ nhiên là cả bức tượng Cha Serra nữa, một ngọn đèn chiếu sáng đặt ở một bên đầu, những cái khác đặt trên đầu những phụ nữ da đỏ quỳ dưới chân ông ta.
Giời. Thật may là Cha Serra là một người tốt và ông ta chết rồi. Tôi có cảm giác bức tượng đó chắc chắn sẽ khiến ông ta phải xấu hổ.
Lối đi vắng lặng, trong sân cũng vậy. Không một bóng người. Tôi chỉ nghe thấy tiếng nước róc rách ở đài phun nước và tiếng dế rả rích đâu đó trong vườn. Nơi này thật sự là một chốn yên bình đến không ngờ. Tôi muốn nói là, tất cả những ngôi trường tôi từng học đều chưa bao giờ khiến tôi cảm thấy yên bình thế này cả. Hay ít nhất là có nơi này, cho đến khi giọng nói cứng rắn vang lên phía sau tôi: "Cô đang làm gì ở đây thế hả?"
Tôi quay lại, cô ta kia rồi. Chỉ đứng dựa vào ngăn tủ để đồ của cô ta - xin lỗi, phải là tủ để đồ của tôi chứ - và nhìn tôi trừng trừng, tay khoanh trước ngực. Cô ta mặc chiếc quần màu đen - đẹp đấy - và áo len cashmere màu xám. Cổ cô ta đeo dây chuyền ngọc trai cộng-thêm - cô ta được tặng mỗi viên ngọc vào mỗi dịp Giáng sinh và Sinh nhật hồi còn sống, chắc hẳn là ông bà cưng cô cháu lắm đây. Chân cô ta đi đôi giày da đen bóng. Mái tóc, óng ánh như chính đôi giày dưới ánh sáng vàng của những ngọn đèn, mượt mà và vàng óng. Cô ta quả thực là xinh đẹp.
Thật tiếc là cô ta lại tự bắn vào đầu mình cơ đấy.
"Heather," tôi nói, kéo chiếc mũ áo xuống. "Chào. Xin lỗi đã làm phiền cô - " Mở đầu lịch sự dù sao cũng tốt hơn. "- nhưng tôi thực sự nghĩ là chúng ta cần phải nói chuyện, giữa cô và tôi."
Heather không động đậy. À, cũng không phải như thế. Đôi mắt cô ta nheo lại. Đôi mắt ấy có màu nhạt, chắc là màu xám, mặc dù cũng khó nói chắc cho lắm, kể cả khi có đèn đi nữa. Hàng mi dài - chải mascara đen - khá hợp với đường kẻ mắt cũng màu đen.
"Nói chuyện ấy à?" Heather kêu lên. "Ờ, phải. Cứ làm như tôi muốn nói chuyện với cô lắm đấy. Tôi biết cô rồi, Suzie ạ."
Tôi chớp mắt một cái, không đừng được. "Là Suze," tôi đáp.
"Sao cũng được. Tôi biết cô đang làm gì ở đây."
"À, tốt thôi," tôi nói. "Thế thì tôi không cần giải thích gì nữa. Cô có muốn ngồi xuống không, để ta nói chuyện?"
"Nói chuyện? Sao tôi lại muốn nói chuyện với cô chứ? Cô coi tôi là đứa thế nào hả đồ ngốc kia? Trời, cô nghĩ là mình quái lắm hay sao? Cô nghĩ cô có thể thế vào dễ dàng lắm, phải không?"
Tôi chớp mắt nhìn cô ta. "Cô nói gì tôi không hiểu?"
"Thế vào chỗ của tôi ấy." Cô ta đứng thẳng dậy, rời khỏi chỗ ngăn tủ, tiến về phía chiếc đài phun nước như thể thích thú với nó lắm vậy. "Cô," cô ta nói, quay lại lườm tôi. "Đứa con gái mới chuyển đến. Đứa con gái mới chuyển đến mà dám nghĩ mình có thể thay thế vừa khít vào cái chỗ mà tôi bỏ lại. Cô có ngăn tủ của tôi rồi, lại còn tiếp tục lấy đi cả người bạn thân nhất của tôi nữa. Tôi biết Kelly đã gọi điện mời cô đến dự bữa tiệc ngu ngốc của cô ta. Và giờ đây cô nghĩ cô có thể đánh cắp bạn trai của tôi nữa cơ đấy."
Tôi chống nạnh. "Anh ta không còn là bạn trai của cô nữa Heather ạ, còn nhớ không đấy? Anh ta đã chia tay cô rồi. Vì thế cô mới chết chứ. Cô bắn tung đầu mình ngay trước mặt người mẹ của anh ta còn gì."
Mắt Heather trợn lên. "Im ngay," cô ta nói.
"Cô bắn tung đầu mình trước mặt mẹ anh ta bởi vì cô quá ngu ngốc đến nỗi không biết rằng không một tên con trai nào - kể cả có là Bryce Martinson đi nữa - đáng để cô chết vì hắn cả." Tôi đi qua chỗ cô ta, tiến về phía lối đi rải sỏi ở giữa khu vườn. Không muốn thú nhận, ngay cả với bản thân tôi, nhưng tôi bắt đầu hơi lo lo khi đứng dưới lối đi sau cái chuyện xảy ra với Bryce. "Trời ạ, hẳn là cô phải điên lắm khi nhận ra cái điều mà cô đã làm. Tự sát. Vì một điều ngu hết sức. Vì một tên con trai cơ đấy."
"Câm mồm!" Lần này cô ta không nói. Cô ta gào lên, to đến nỗi hai tay nắm lại hai bên, mắt nhắm nghiền, vai cúi xuống. Tiếng hét to đến nỗi hai tai tôi còn lùng bùng sau đó. Tôi trông thấy một vài ngọn đèn bật sáng nhưng không có ai chạy đến cả. Những con bồ câu đang gù gù trên mái hiên đều không dám ho he gì hết sau khi Heather xuất chiêu, và bọn dế thì cũng cắt luôn bản dạ khúc đang chơi.
Người ta không thể nghe thấy tiếng ma - hừm, hầu hết là như thế - nhưng điều đó không đúng với bọn động vật hay thậm chí cả côn trùng đi nữa. Chúng đều có khả năng siêu cảm đối với những hiện tượng siêu linh. Max, con chó nhà Ackerman, không dám bén mảng đến gần phòng tôi, nhờ công của Jesse đấy.
"Hét lên như thế thì được cái gì chứ," tôi nói. "Ngoài tôi ra có ai nghe thấy đâu nào."
"Tôi cứ hét nếu muốn đấy," cô ả ré lên. Rồi lại chuẩn bị tiếp.
Tôi ngáp dài, tiến đến ngồi xuống một trong những băng ghế gỗ cạnh bức tượng Cha Serra. Tôi nhìn thấy một tấm biển ở chân bức tượng. Dưới ánh trăng và ánh đèn, tôi có thể đọc được dễ dàng.
Cha Junipero Serra tôn kính, tấm biển viết, sinh năm 1713, mất năm 1784. Những cách cư xử ngay thẳng và sự hi sinh quên mình của ông là tấm gương cho những tất cả những người biết đến ông và được ông chỉ dạy.
Huh. Về nhà tôi phải tra nghĩa của cụm từ hi sinh quên mình trong từ điển mới được. Tôi chả biết có phải nó cũng đồng nghĩa với cụm từ tự xử bằng roi không nhỉ, ông Serra cũng được nổi tiếng vì điều đó mà.
"Cô có nghe tôi nói gì không hả?" Heather gào lên.
Tôi nhìn cô ta. "Cô có biết từ hi sinh nghĩa là gì không?" tôi hỏi.
Cô ta không hò hét nữa mà nhìn tôi trừng trừng. Rồi cô ta lướt tới, gương mặt tái đi vì một cơn thịnh nộ.
"Nghe đây, con khốn kia," cô ta nói, dừng lại khi đứng cách tôi vài chục phân. "Tôi muốn cô xéo đi, có hiểu không hả? Tôi muốn cô biến khỏi ngôi trường này. Kia là tủ của tôi. Kelly Prescott là bạn thân nhất của tôi. Và Bryce Martinson là bạn trai của tôi! Cô xéo ngay, xéo về cái chốn ban đầu cô ở ấy. Trước khi cô đến đây, mọi việc đều tốt đẹp - "
Tôi phải ngắt lời cô ta. "Xin lỗi nhé, Heather, nhưng trước khi tôi đến đây thì mọi thứ không hề tốt đẹp tí nào. Có biết tại sao tôi lại biết thế không? Bởi vì cô chết rồi. Đúng chưa? Cô chết rồi. Những kẻ chết rồi thì làm gì có tủ đồ, làm gì có bạn thân nhất, làm gì có bạn trai nữa. Biết tại sao lại thế không? Bởi vì bọn họ đều chết cả rồi."
Heather trông như thế lại sắp sửa gào lên lần nữa, nhưng tôi tiến đến. Tôi nói, nhẹ nhàng và thẳng thắn: "Giờ tôi biết rằng cô đã phạm phải một sai lầm. Cô đã phạm một sai lầm khủng khiếp - "
"Tôi không phải là đứa có lỗi." Heather thẳng thừng nói. "Chính Bryce mới có lỗi. Bryce mới là kẻ đã đá tôi."
Tôi nói: "Ờ, đó không phải là sai lầm mà tôi muốn nói đến. Ý tôi muốn nói về chuyện cô tự bắn chính mình vì một tên con trai ngu ngốc đã chia tay với - "
"Nếu cô nghĩ anh ta ngu ngốc," Heather nhếch môi khinh bỉ, "thế sao còn hẹn hò với anh ta vào thứ 7? Đúng thế. Tôi đã nghe thấy anh ta mời cô đi chơi. Đồ phản bội. Anh ta có lẽ chưa bao giờ chung thuỷ được nổi một ngày khi còn hẹn hò với tôi."
"Ờ," tôi nói. "Thế thì cũng tốt thôi. Thêm một lý do nữa để cô tự kết liễu bản thân vì anh ta đấy."
Những giọt nước mắt, long lanh như mấy viên kim cương giả bạn mua về đính vào móng tay ấy, đọng dưới hàng mi của cô ta. "Tôi yêu anh ấy," cô ta thì thào. "Nếu không có anh ấy, tôi chẳng muốn sống nữa."
"Và giờ thì cô chết rồi còn gì," tôi mệt mỏi nói, "cô mong đợi anh ta đoàn tụ với cô, phải thế không?"
"Tôi không thích nơi này," cô ta nói nhỏ. "Chẳng ai nhìn thấy tôi hết. Chỉ có cô và Ch-Cha Dominic thôi. Tôi cô đơn quá..."
"Đúng vậy. Điều đó dễ hiểu thôi. Nhưng Heather ạ, cho dù cô có cố giết anh ta thì anh ta cũng sẽ không thích cô vì điều đó đâu."
"Tôi có thể làm cho anh ấy thích tôi," Heather nói một cách tự tin. "Dù sao đi nữa, rồi cũng sẽ chỉ có tôi và anh ta mà thôi. Anh ta sẽ phải thích tôi."
Tôi lắc đầu. "Không đâu, Heather. Mọi việc sẽ không như thế đâu."
Cô ta trừng mắt nhìn tôi. "Ý cô là gì?"
"Nếu cô có giết Bryce đi chăng nữa thì cũng chả có gì đảm bảo là anh ta sẽ ở lại đây với cô cả. Chuyện xảy ra với mọi người sau khi chết - nói chung tôi không rõ lắm, nhưng tôi nghĩ là mỗi người mỗi khác. Nếu cô giết Bryce, anh ta sẽ đến nơi cần phải đến. Thiên đàng, địa ngục, hay kiếp sau - tôi không rõ. Nhưng tôi biết chắc chắn một điều là anh ta sẽ không ở lại đây với cô đâu. Mọi việc sẽ không như thế."
"Nhưng - " Heather trông nổi khùng lên. "Nhưng như thế không công bằng - "
"Có rất nhiều chuyện không công bằng, Heather ạ. Ví dụ như, việc cô phải khổ sở mãi mãi vì một sai lầm nhất thời cũng không công bằng. Tôi tin rằng nếu cô biết được chết là như thế nào thì chắc chắn không bao giờ cô lại đi tự sát cả. Nhưng Heather ạ, mọi việc đâu cần phải như thế này."
Cô ta nhìn tôi chằm chằm. Nước mắt đọng lại trông như những giọt nước đá nhỏ xíu.
"Không ư?"
"Không. Không cần."
"Ý cô là... ý cô là tôi có thể quay lại?"
Tôi gật đầu. "Cô có thể. Cô có thể bắt đầu lại từ đầu."
Cô ta sụt sịt. "Bằng cách nào?"
Tôi đáp: "Cô chỉ cần quyết tâm làm việc đó thôi."
Gương mặt xinh đẹp của cô ta cau lại. "Nhưng tôi đã quyết định rằng đấy là việc tôi muốn làm rồi. Việc duy nhất tôi muốn làm kể từ khi... từ khi chuyện này xảy ra... là lấy lại cuộc sống như trước kia."
Tôi lắc đầu. "Không phải, Heather ạ," tôi nói. "Cô hiểu sai ý tôi rồi. Cô không bao giờ còn có thể có lại cuộc sống nữa - cuộc sống trước kia của cô ấy. Nhưng cô có thể bắt đầu một cuộc đời mới. Nó sẽ tốt hơn là cứ như thế này, tốt hơn là cứ một mình cô trơ trọi nơi đây mãi mãi, lê nỗi căm giận khắp nơi, làm tổn thương người khác - "
Cô ta quát lên: "Cô bảo là tôi có thể lấy lại cuộc sống của mình cơ mà!"
Trong một khoảnh khắc, tôi nhận ra rằng tôi đã mất cơ hội với cô ta. "Tôi không có ý nói cuộc sống trước đây của cô. Ý tôi là cuộc đời - "
Nhưng đã quá muộn mất rồi. Cô ta nổi điên lên.
Tôi hiểu vì sao bố mẹ Bryce lại đưa anh ta đến Antigua. Tôi ước gì mình cũng được ở đó - thật ra là ở bất cứ nơi nào, để có thể thoát khỏi cơn thịnh nộ của đứa con gái đó.
"Cô đã bảo," Heather gào thét, "cô đã bảo rằng tôi có thể lấy lại cuộc sống của mình! Cô nói dối tôi!"
"Heather, tôi không nói dối. Tôi chỉ muốn nói là cuộc sống của cô... ơ... cuộc sống của cô đã hết rồi. Heather ạ, chính cô đã tự kết thúc nó đấy chứ. Tôi biết điều này thật khó tiêu, nhưng mà cô phải nghĩ đến nó trước khi - "
Cô ta ngắt lời tôi với một tiếng thét - đáng sợ, dĩ nhiên. "Tôi sẽ không cho phép cô," cô ta ré lên. "Tôi sẽ không để cô lấy đi cuộc sống của tôi đâu."
"Heather, tôi đã bảo rồi, không mà. Tôi có cuộc sống của chính mình. Đâu cần cuộc sống của cô chứ - "
Bọn dế và chim bồ câu im re khiến cho tiếng nước róc rách ở đài phun nước cách đó không xa là thành âm thanh duy nhất trong sân, trừ có tiếng gào thét của Heather. Nhưng đột ngột tiếng nước chảy ấy bỗng trở nên thật lạ lùng. Đó là tiếng lốp bốp nghe rất buồn cười. Tôi nhìn về phía đó và thấy hơi đang bốc lên trên mặt nước. Tôi vẫn không thấy có gì lạ lắm - bên ngoài trời lạnh, mà nhiệt độ của nước thì chắc là cao hơn nhiệt độ của không khí - nếu không thấy một cái bong bóng to tướng thình lình vỡ ra trên mặt nước.
Rồi tôi giật thót. Cô ta đang làm cho nước sôi lên. Cô ta dùng chính sức mạnh từ cơn thịnh nộ của mình để đun sôi nước.
"Heather," tôi nói, từ chỗ ngồi của mình. "Heather, nghe tôi này. Cô phải bình tĩnh lại. Chúng ta không thẻ nào nói chuyện khi mà cô đang - "
"Cô... đã... bảo..." tôi cảnh giác thấy đôi mắt Heather thụt vào trong hốc mắt. "Tôi... có... thể... bắt... đầu... lại!"
Được rồi. Đến lúc phải làm gì đó thôi. Tôi chẳng cần cái ghế đang ngồi khi nó bắt đầu rung lắc dữ dội đến nỗi tôi suýt bị hất văng đi. Tôi biết đến lúc đứng lên rồi đây.
Và tôi làm vậy, thật nhanh. Thật nhanh để không bị cái ghế đập vào. Thật nhanh để tiến tới chỗ Heather trước khi cô ta nhận ra, để hạ cô ta càng mạnh càng tốt bằng một cú ngay dưới cằm.
Tôi hoàn toàn ngạc nhiên, cô ta chẳng có vẻ gì cảm thấy điều đó cả. Cô ta đã thay đổi. Thay đổi thực sự. Đánh cô ta chẳng có một tác dụng gì ngoài việc làm cho những đốt ngón tay tôi đau điếng. Và dĩ nhiên, điều đó dường như làm cho cô ta càng điên tiết hơn; luôn luôn là tác dụng phụ của việc đương đầu với một con ma ương bướng độc ác.
"Mi," Heather nói bằng một giọng trầm khác hẳn với giọng líu ríu thông thường, "sẽ phải hối hận."
Nước trong đài phun đột ngột sôi đến cực điểm. Những đợt sóng khổng lồ bắt đầu đập vào bên thành. Những cột nước vốn chỉ phun cao được đến 1m2 đột ngột vút lên đến ba thậm chí sáu mét, chảy xuống cái vạc nước đang sôi sùng sục, bốc hơi nghi ngút. Bon chim chóc trên ngọn cây đồng loạt bay mất, trong một thoáng, sải cánh của chúng che lấp cả ánh trăng.
Tôi có một cảm giác buồn cười rằng Heather đang nói nghiêm chỉnh. Hơn thế nữa, tôi có cảm giác cô ta có thể làm được việc đó. Thậm chí không thèm nhấc một ngón tay.
Và tôi biết chắc điều đó khi cái đầu của Junipero Serra bất ngờ bay khỏi thân bức tượng. Phải rồi. Nó rơi ra dễ như thể được làm từ kẹo chứ không phải làm bằng đồng rắn chắc. Cô ta bẻ nó ra chẳng tốn sức. Cái đầu bay trên không trong khoảnh khắc, từ một góc nhìn kì lạ lúc lơ lửng phía trên đầu tôi, cái nhìn tràn ngập thương cảm chuyển thành cái nhếch môi hiểm ác. Khi tôi chết đứng ở đó, nhìn chằm chằm vào ánh đèn nhấp nháy với cái đầu kim loại, tôi thấy nó đột ngột hạ xuống...
Rồi quăng về phía tôi, lao nhanh đến nỗi chỉ là một vệt mờ nhạt trên bầu trời đêm, như thể một ngôi sao chổi, hay -
Tôi chẳng còn cơ hội nghĩ xem nó giống cái gì nữa khi một tích tắc sau có thứ gì đó đánh mạnh vào bụng tôi, khiến tôi lăn lộn trên đất, tôi nằm đó, ngước lên nhìn bầu trời đầy sao. Đẹp quá. Màn đêm đen sẫm, những ngôi sao lấp lánh, xa xôi, lạnh lẽo -
"Đứng dậy!" Một giọng nam khó nghe dội vào tai tôi. "Tôi tưởng cô giỏi việc này lắm cơ đấy!"
Có thứ gì đó vỡ tan trên đất cách mặt tôi đúng 3 phân. Tôi quay đầu lại và trông thấy cái đầu của Junipero Serra đang nhe răng cười tục tĩu.
Rồi sau đó Jesse dựng phắt tôi dậy và đẩy tôi về phía lối đi.